những câu chuyện về nguyễn trãi
Để có thể xây dựng một bài văn hay cùng những câu từ cuốn hút về Bình Ngô Đại Cáo, bạn cần hiểu được yêu cầu của bài văn. Từ những dữ liệu đưa ra, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng, bạn cần làm sáng tỏ 2 vấn đề sau: Nguyễn Trãi - Bậc kỳ tài trong
Câu chuyện kể về các nhân vật Thiều, Tường, Mận, Nhi với những câu chuyện xúc động mà sâu sắc. Ra mắt năm 2015 bởi NXB Trẻ, Bảy bước tới mùa hè được coi là tác phẩm bán chạy nhất của nhà văn trong năm 2015 của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh.
Chuyện thứ ba tôi Īquenī Nguyễn Trãi thời nhỏ là những câu trong ĪGia Huấn Caī của ông. Nói vậy cũng không hẳn đúng vì ngày đó tôi không biết những câu này là của Nguyễn Trãi. Bà cố tôi, da nhăn nheo, răng rụng hết hai hàm, nhưng thơ thì vẫn đầy bụng.
Không trả lời thẳng điều Nguyễn Xí hỏi, Đinh Lễ chỉ nói nửa vời: - Đã đến lúc cần đến đạo quân của chúng ta rồi đó. Nguyễn Xí cau mày suy nghĩ. Con người vốn ưa hành động, sẵn sàng đánh giặc và quyết thắng giặc kỳ được của Nguyễn Xí lúc này bừng bừng như bốc lửa. Trong trí ông, khu đồng lầy vùng Cao Bộ mà ông đã có dịp đi qua hiện ra rõ rệt.
Thi nhân như Bashô, Nguyễn Trãi là những thi sĩ vĩ đại của thiên nhiên, không chỉ ở chỗ hai ông đã sáng tạo ra những câu thơ tuyệt đẹp về phong cảnh thiên nhiên, mà còn ở chỗ hai ông là những người dẫn đạo cho một cuộc hành hương lớn lao trở về với thiên nhiên
Site De Rencontres 100 Pour 100 Gratuit. Những câu chuyện về cuộc đời Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi – Tiểu sử Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại Chí Linh, Hải Dương sau dời về Nhị Khê Thường Tín, Hà Tây. Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 – 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải Lệ Chi Viên, Bắc Ninh. Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442. Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan. Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điêm cơ bản sau Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. O*? Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử. + SỰ NGHIỆP THƠ VĂN – Nhà văn, nhà thơ lớn là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. “Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là địch vận. “Bình Ngô đại cáo” lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” viết về địa lý lịch sử nước ta. “Chí Linh sơn phú” nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán. Về thơ, có hai tập “Ức trai thi tập” bằng chữ Hán, “Quốc âm thi tập” bằng chữ Nôm, tức chữ Việt, đó là thơ cả một đời, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. Nội dung thấy rõ trong đó là tâm tình đối với quê hương, gia đình, với nước, với dân, với bao éo le trong cuộc đời… – Tình yêu quê hương gia đình Nội dung thơ văn ông rất phong phú. Đây chỉ nói vắn tắt một vài khía cạnh. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên ở quê hương. Bắt đầu là những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu, nhưng chan chứa thân thương. Rau muống, mồng tơi, râm bụt, cây chuối, cây đa, cây mía… đều thành vần điệu. Đào, liễu, tùng, trúc cao sang đứng liền bên cạnh rau muống, mồng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Không chút gì phân biệt sang hèn. Tất cả đều được lòng ông trìu mến. Ông nói một cách trang trọng “Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn”, mà cũng vừa vui tươi chân chất “Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen”. Ông phát hiện ra cái đẹp bình dị rất bất ngờ Đêm trăng gánh nước thì gánh luôn trăng đem về “Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về”. Bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại “Thế giới đông nên ngọc một bầu”. Thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc “Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi”. Con rùa, con hạc, núi, chim, mây, trăng, ông coi là con cái, là láng giềng, là anh em “Rùa nằm, hạc lẩn nên bầy bạn, U ấp cùng ta làm cái con…”, “Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam”. Có lúc, ông như hòa tan mình vào thiên nhiên đến mức dòng suối, tảng đá phủ rêu, vòm thông tán trúc như hòa nhập với ông làm một “Côn Sơn có suối rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, Trong lèn thông mọc như nêm, Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”… Côn Sơn ca – dịch. Tiếp theo là niềm tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm ông phải lẫn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầụ Đêm thu, xa nhà, bên ngọn đèn khuya, ông day dứt Gió thu đến, lá rụng rồi. mình vẫn lận đận quê người, Đêm mưa, bên ngọn đèn leo lét, hồn mộng cứ vẫn vơ mãi nơi đất khách” Đêm thu đất khách – dịch. Tiết Thanh minh đến, theo tục, con cháu phải về thăm mồ mã ông bà, sửa sang, bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ, cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm ông không về được. Ông chỉ não lòng “Thân mình xa ngàn dặm, mồ mã ông bà ở quê không sao giẫy cỏ thắp hương, Mười năm đã qua, những nguời ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai, Đành mượn chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê” Thanh minh – dịch. Ông mất mẹ lúc mới lên sáu. Lòng con thương mẹ càng nồng. Ông bà ngoại, cậu, dì đều ở Côn Sơn. Quê nội nhiều đời cũng ở đó. Một lần đi thuyền về thăm, ông ôn lại bao nỗi đắng cay trong những ngày lưu lạc. Nghe sao mà tha thiết “Mười năm rồi mình trôi dạc như cánh bèo, Đêm ngày nổi nhớ quê cứ như giày vò trong lòng, Bao lần đã gửi hồn tìm về quê cũ, Nhưng rồi đành nhỏ nước mắt thấm máu mà gội rửa trong tưởng tượng nấm mồ mẹ, mồ mã ông bà, còn xóm làng, bà con, trong lúc giặc giày xéo thì tránh sao được những hành vi bạo tàn của chúng! mà mình thì cứ đang phải thương xót suông, Trời biết làm sao đây! Một đêm trôi qua bên gối, không cách nào nhắm mắt được” viết trên thuyền về Côn Sơn – dịch. – Đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào “Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao”. Cấy cày là niềm vui “Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê”. Người dân bùn lấm đáng được biết ơn “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh “Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là”, “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng”, xa lánh chốn lợi danh nham hiểm “Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe”. Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm “lòng thơm”. Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân. Có khi ông gọi đó là “lòng trung hiếu”, “lòng ưu ái”. Nó suốt đời sôi nổi “Bui có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”, “Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Nó dựa trên lý tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng cao qúy xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với ông, nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo” hay “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”. Được như vậy mới thực sự “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Nhân trí, anh hùng ấy thuộc lòng yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vời. Nói cụ thể như “cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Đất nước bị ngoại xâm, nó hiện thành lòng lòng căm thù giặc cao độ và ý chí kiên trì, gang thép tiêu diệt quân thù “Căm giặc nước thề không cùng sống”, “Nếm mật nằm gai, há phải một sớm hai tối, Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”. Quân giặc quét sạch rồi, nó là khát khao xây dựng một đất nước hưng thịnh, nhân dân đời đời ấm no hạnh phúc “Xã tắc từ đây bền vững, Giang sơn từ đây đổi mới…., Muôn thởu nền thái bình vững chắc”. Nguyễn Trãi – Ngôi sao Khuê của văn hóa Việt Nam Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn Ứng Long, hiệu Ức Trai tức là Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh tiến sĩ năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lư tự khanh Thị lang ṭả trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi – Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan tức Thăng Long, Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa Ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết Bình Ngô sách “hiến mưu chước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mì́nh để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề Gia Lâm. Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân th́ mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đă thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đă viết “Chí những muốn, việc cố nhân ĩa muốn để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”. Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân – Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh Thăng Long chỉ là một túp nhà tranh góc thành Nam lều một gian. Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trăi. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại tru di tam tộc khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là v́ì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Nguyễn Trãi – Bền gan nuôi chí lớn Năm inh Hợi 1407 tháng bảy, sau khi chiếm được nước ta, Trương Phụ sai bọn Liễu Thăng, Lỗ Lân giải cha con Hồ Quý Ly và gia quyến, tướng tá về Kim Lăng Nam Kinh. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh làm chức Tự Khanh cũng bị bắt đem đi chuyến ấy. Ông và em là Nguyễn Phi Hùng lẽo đẽo đưa cha đến ải Pha Luỹ Hữu nghị quan, khóc lóc xin theo chân để phụng dưỡng. Nguyễn Phi Khanh vẫy tay gọi Nguyễn Trãi, ứa nước mắt nói – Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải theo cha khóc lóc mới là có hiếu sao! Nguyễn Trãi nghe rồi lạy hai lạy xin vâng lời. Về đến ông Quan, quân Minh biết Nguyễn Trãi từng là triều quan của Hồ Quý Ly bèn bắt điệu đến Án sát ty. Viên Thượng thư Hoàng Phúc coi cả ô ty và Án sát ty đang nghị bàn công việc với viên Tổng binh Trương Phụ. Thấy lính giải Nguyễn Trãi đến trước mặt, Trương Phụ giật mình, liền ghé tai Hoàng Phúc nói nhỏ – Tên này mặt mũi khôi ngô rõ ra người có tài đức, văn hay học rộng, am hiểu thư toán. Gân sức nó cứng rắn, chí nó không phải nhỏ, nếu không sớm trừ đi, sau này tất sẽ là mối họa khôn lường. oạn, thét quân lôi ra chém. Hoàng Phúc cả cười, nhìn Nguyễn Trãi rồi bảo với Trương Phụ rằng – Một tên học trò trói gà không chặt thế kia sao có thể là mối lo của nước được! Tổng binh quá lo xa. Nay Giao Chỉ mới nhập vào bản đồ, việc phủ dụ chiêu an để yên lòng dân man là việc trọng. Tha tội chết cho nó, giam lỏng ở ông Quan, lấy danh lợi quan tước và vỗ về chiêu dụ là kế hay hơn cả. Sau này, nếu nó không chịu qui phục, lại theo đảng nghịch, bấy giờ lấy pháp luật mà trị tội cũng chưa muộn. Trương Phụ cực chẳng đã đành nghe theo. Hoàng Phúc thả Nguyễn Trãi ra, cho ở góc Nam bên ngoài thành ông Quan. Ông dựng một túp lều tranh bên cái ao nhỏ. Nhà lều một căn tuềnh toàng, đạm bạc, chó không cần nuôi, người hầu không có. Ông sống như thế ngót chục năm trời. Quân Minh năm lần bảy lượt đem tiền bạc, quan tước rất hậu đến nhử, ông đều ôn tồn từ chối. Bấy giờ, ông có thơ rằng “Góc thành Nam, lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn …” ông Quan là đất xung yếu của giặc ở ại Việt. Lòng dạ ý đồ giặc thế nào, giặc xử sự động tĩnh ra sao đều ở đây mà ra. ông Quan cũng là nơi phơi bày rõ nhất mọi điều rông rỡ bạo ngược của giặc, cũng như moi gan ruột dân tình chốn kinh sư. Chỗ mạnh chỗ yếu của giặc đều ở trong con mắt lỗ tai của Nguyễn Trãi. Ông ngày đêm ngẫm nghĩ suy xét và bí mật viết sẵn phương lược, gọi là “ Bình Ngô sách”. Biết Nguyễn Trãi không chịu nhận chức nguỵ quan, cũng chẳng phải là người phẫn chí ngã lòng đi ở ẩn như Bùi Úng ẩu, Lý Tử Cấu, mà ngấm ngầm nuôi chí lớn, Hoàng Phúc luôn miệng dặn bọn thủ hạ phải canh chừng – Trãi không phải người tầm thường. Lỡ ra để sống, sau này tai vạ tất không thể tránh khỏi! ” Nguyễn Trãi – i tìm minh chủ Một hôm, theo lời mật hẹn với người em họ ngoại là Trần Nguyên Hãn bấy giờ đang cầm đầu toán nghĩa quân ở Lập Thạch Vĩnh Phú, Nguyễn Trãi lẻn ra ngoại thành, lên Thuỵ Hương tục gọi là Làng Chèm Từ Liêm, Hà Nội. Ông vào ngồi đợi Hãn ở đền thờ Hy Khang đại vương Lý Ông Trọng. Vừa lúc, Hãn giả là người bán dầu cũng đến. Hai anh em bàn tính – Bây giờ, người nổi binh dấy nghĩa thì nhiều nhưng đều là hạng tầm thường cả. ến như Giản ịnh, Trùng Quang tuy là tôn thất xưng đế dựng cờ vì không biết nắm quyền, chưa qua sông đã chặt cầu, giết hại đại thần nên tốn sức mà không thành công. Nghe nói có ông Lê Lợi ở trại Lam Sơn, đất Thanh Hóa là người có chí lớn, biết chiêu hiền đãi sĩ. Ai cũng bảo ông là rồng vàng đang chờ hội mây mưa, ta nên tìm đến mà tôn phù. Anh em gật gù đắc ý, bấm nhau đi nằm, chờ sáng mai cùng đi. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hai anh em vội kéo nhau đi ngay. Trèo đèo lội suối, trốn tránh quân Minh gần tháng trời thì đến trại Lam Sơn, xin ra mắt. Trại chủ Lam Sơn tiếp đón ân cần và giữ lại làm khách trong nhà. Hai anh em ở ít lâu, đêm ngày để tâm dò xét, vẫn chả thấy Lê Lợi đả động gì đến chuyện dấy binh. Chỉ thấy Lê Lợi hay vắng nhà mà khách khứa bốn phương vẫn ra vào tấp nập; dầu thắp, gạo ăn còn đầy kho vẫn thấy Lê Lợi sai mua; cày cuốc đã đủ, đã nhiều vẫn thấy Lê Lợi sai người tìm thêm sắt. Lại thấy Lê Lợi hay sai người đem lễ vật lo lót với quan quân Minh quanh vùng. Bởi thế, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn bụng rất phân vân. Một hôm, nhà Lê Lợi có giỗ. Hai anh em có việc xuống bếp, bất ngờ gặp Lê Lợi quần vén lên tận đùi đang ngồi thái thịt vừa thái vừa ăn chẳng ra tinh tướng một vị thiên tử. Anh em đều thở dài bảo nhau – Ta lầm rồi! oạn bấm nhau hẹn ngày bỏ đi. êm ấy, chợt thấy Lê Lợi xách gươm lén ra khỏi nhà, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn nghi hoặc bèn lẳng lặng theo chân. ến núi Du Sơn, Lê Lợi lẻn vào một hang rộng có ánh đèn. Trong hang, người đông lố nhố, xúm quanh tảng đá lớn làm bàn, cùng Lê Lợi nhỏ to bàn bạc. Lê Lợi giở cuốn binh thư đọc, giọng sang sảng, dõng dạc sau lại cùng mấy người chụm đầu bàn tính. Hồi lâu Lê Lợi nói – Phải đến năm Hợi 1419 mới nổi binh được. Vốn là người giỏi mưu lược, sát binh tình nay thấy Lê Lợi dự kiến sai, Nguyễn Trãi quên mình đang nghe trộm, buột miệng vọng vào nói lớn – Chúa công tính lầm rồi! Lê Lợi giật mình, tuốt gươm xông ra toan chém, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn vội phục xuống nói – Chúng tôi từ xa lận đận tìm đến, chỉ vì chúa công là người có thể lấy lại được thiên hạ. Lê Lợi đỡ hai người dậy, hỏi họ tên rồi vội vàng cầm tay dắt vào trong hang. Nguyễn Trãi xin hiến “ Bình Ngô sách” còn Trần Nguyên Hãn thì dâng thanh bảo kiếm gia truyền của ông tổ bảy đời là Trương quốc Thái úy Thượng tướng Trần Quang Khải. Lê Lợi mừng rỡ khôn xiết, cả cười mà rằng – Thực là trời không muốn cho dân ại Việt ta mất nước nên mới đem các ông đến đây ban cho ta! oạn, lưu hai người lại, mưu việc khởi binh. Nguyễn Trãi – Tướng đánh tâm công Ít hôm sau, người khắp vùng xôn xao về một chuyện lạ. Nhiều thân cây, lá cây đều có hàng chữ “ Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi”. Dân chúng ai nấy đều mừng thầm, ghé tai vào nhau bảo nhỏ – Trời đã cho nước Nam có chủ. Ta đi tìm ông Lê Lợi mà tôn phù thôi. Việc sửa soạn dấy nghĩa nhân thế gặp nhiều thuận lợi. Người các nơi ùn ùn theo về, đông lắm. Lê Lợi biết chuyện rất đẹp lòng, mới bảo tướng tá – Biết đánh vào lòng người như vậy tất không ngoài mưu kế của Nguyễn Trãi. Sau gọi lên hỏi quả nhiên như vậy Nguyễn Trãi đã lấy mật viết vào lá cây, kiến theo đó đục thành chữ; người người không biết tưởng thần bảo, đều tin lắm. Từ đấy cho đến khi lấy xong được nước, Lê Lợi rất yêu quý Nguyễn Trãi. ánh đông dẹp bắc, đi đâu ông cũng giữ Nguyễn Trãi bên mình làm quân sư. Mọi việc mưu lược, viết thư, thảo hịch hết thảy đều do Nguyễn Trãi trù tính. Bấy giờ là vào năm Quý Mão 1423, tổng binh Trần Trí chỉ huy đại binh từ ông Quan kéo vào đánh nghĩa quân đang hoạt động ở huyện Khôi và huyện Xa Lai giáp giới Hà Sơn Bình – Hà Nam Ninh. Thế giặc rất mạnh, quân đông có tới trăm ngàn. Nghĩa quân phải lui về núi Chí Linh lần thứ ba. Giặc đuổi theo, rải quân bủa vây kín bốn mặt. Suốt hai tháng trời bị vây hãm, lương thực kiệt dần, măng non rau củ trong rừng cũng cạn. Lê Lợi phải cho giết cả bốn thớt voi để nuôi quân. Có con ngựa vua cưỡi cũng đem thịt nốt. Quân sĩ đói quá, đã có người bỏ trốn. Một viên tướng tên là Khanh cũng bỏ trốn. Lê Lợi bắt được phải đem chém rao cho mọi người biết để làm răn. Tình thế cực kỳ bức bách. Tướng sĩ mới nói với Lê Lợi – Giặc mạnh ta yếu, thế như trứng chọi với đá, tất không tránh khỏi họa diệt vong. Nay giặc đang muốn dụ hàng, bất nhược ta hãy nhân đó mà tạm hòa ít lâu để có thì giờ nghỉ ngơi sửa soạn, sau lại đánh cũng không muộn. Lê Lợi nói – Ta cũng đã tính tới chuyện đó. Hiềm vì nỗi, giặc mười phần nắm chắc chín phần thắng ta, nên không dễ chịu lui binh giảng hòa. Bởi thế, phải có người ăn nói thật khéo, viết thư thuyết phục, mới may thoát khỏi thế quẫn bách này. Việc ấy phi Nguyễn Trãi không ai làm nổi. Nguyễn Trãi bước ra lĩnh mệnh thảo “ Thư tố oan” tức thư giả xin hàng. Lại viết riêng một thư gửi tổng binh Trần Trí, một thư gửi Thái giám Sơn Thọ, trung sứ của vua Minh sang dụ hàng. Lê Lợi sai anh vợ là Trần Vận và tướng Lê Trăn đem các thư ấy và năm đôi ngà voi làm lễ vật cầu hòa. Tống binh Trần Trí tiếp thư mới đem cho tướng tá nghị bàn. Thư viết Tri huyện ồ Phú là người đồng hương cùng tôi có hiềm khích. Nó đút lót với tham chính Lương Nhữ Hốt nói vu cho tôi. Nhữ Hốt báo với quan quản binh. Nội quan Mã Kỳ nhân đó cho quan quân đến đánh úp bộ chúng của tôi không kể trẻ già đều chém giết bắt bớ; họ hàng tôi đều tan tác, vợ con tôi đều chia lìa; lại khai quật mồ mả tổ phụ tôi mà phơi bày hài cốt …” Nghe thư, Mã Kỳ bị chạm nọc đập bàn quát lớn – Xin hàng gì mà toàn là lời tố cáo láo xược! Trần Trí can – Chấp gì chuyện ấy. Ông chớ vì một lời nói mà để hỏng việc lớn. Nay nội địa đang bị khốn đốn trong thì thiên tai dân biến; ngoài thì liền năm xuất chinh cự quân Ngõa Thích ở phía Tây, chống quân Thát át ở phía Bắc. Hoàng đế đã truyền phải cố sức dụ hàng Lê Lợi cho Giao Chỉ tạm yên , để chuyên tâm lo việc nội địa. Tôi xem thư thấy viết ” Xin hoặc cho đi đánh Bắc để lập công hoặc cho theo dẹp Tây để chuộc tội dù chết cũng không từ” . Nh ư thế là Lê Lợi biết rõ chuyện nội địa. Nay nếu bị bức bách quá, bọn chúng tất phải liều chết đánh mãi; quan quân phải đi đánh dẹp hao binh tổn tướng, nạn ấy không biết bao giờ mới dứt, còn ta thì thêm mang tội trái mệnh dụ hòa của hoàng đế. Sơn Thọ cũng nói – Xem thư viết “ Tôi từ sinh ra thích danh tiết mà trọng nhân nghĩa ghét tiểu nhân mà dấn mình vào hoạn nạn tuy ở trong cảnh gian nan nguy hiểm mà không nhụt chí bình sinh” ủ biết Lê Lợi là không phải kẻ lấy uy vũ mà khuất phục được. Nên cho hàng. Mã Kỳ đành nghe theo. Thế là, chỉ một khắc xắn tay múa bút, Nguyễn Trãi đã đánh lui cả mười vạn quân Minh để nghĩa quân rảnh tay sửa soạn, đợi thời cơ, chờ dịp tốt sẽ rửa sạch thẹn cũ, lấy lại bờ cõi xưa. Từ bấy giờ,theo chân nghĩa quân Nguyễn Trãi tung thư chiêu dụ gửi khắp mặt các tướng suý nhà Minh từ bọn Trần Trí, Sơn Thọ, Phương Chính, Lý An, Vương Thông, Thái Phúc, à Trung, Mã Anh, Mã Kỳ đến bọn Lương Minh, Hoàng Phúc, Mộc Thạnh, Liễu Thăng cùng bọn nguy quan. Văn chương của ông đánh mạnh vào lòng người, thu phục được nhân tâm quân Minh. Không mất một mũi tên hòn đạn mà giặc ở các thành Trà Long, Diễn Châu, Nghệ An đều ở Nghệ Tĩnh, iêu Diêu Gia Lâm, Hà Nội, Thị Cầu Hà Bắc, Tam Giang Vĩnh Phú đều lần lượt cởi giáp ra hàng. Nguyễn Trãi – Một đời vì nước vì dân Khi lấy xong thiên hạ, Lê Lợi lên ngôi báu. Tháng một năm Mậu Thân 1428. Lê Thái Tổ thiết triều, hội các quan văn võ lại luận bàn ân thưởng, phong Trần Nguyên Hãn làm Tả tướng quốc, ban Nguyễn Trãi tước Quang Phục hầu và cho giữ chức Nhập nội hành khiển. Tuy được phong thưởng quan cao chức trọng nhưng cả hai anh em đều không thật yên lòng. Một lần, Trần Nguyên Hãn nói với Nguyễn Trãi – Vua ta có tướng như Việt Vương Câu Tiễn, không thể cùng hưởng phú quý được. Nguyễn Trãi bảo – Ta cũng sợ nhà vua đối đãi với bề tôi như Hán Cao Tổ với Hàn Tín ngày xưa. Anh em đều thở dài. Bấy giờ, vua Lê Thái Tổ hay bệnh tật ốm đau, con trưởng là Tư Tề thì ngu dốt ngông cuồng, con thứ là Nguyên Long thì còn nhỏ tuổi. Bởi thế, vua đem lòng lo sợ cho ngôi báu mà nghi các công thần danh tiếng. Quả nhiên, năm sau, Lê Thái Tổ sai bốn mươi hai lực sĩ về trại Sơn ông Vĩnh Phú, nơi Trần Nguyên Hãn cáo quan lui về ở ẩn, bắt về kinh trị tội. Phạm Văn Xảo cũng là một khai quốc công thần nhưng Xảo gốc người ở kinh đô, lại có danh vọng đối với mọi người, vua Thái Tổ sợ sau sinh biến nên cũng ra lệnh giết nốt. Nguyễn Chích thì bị cách chức về làm dân thường. Còn Nguyễn Trãi bị bị tước hết quan tước tống ngục. Ít lâu sau, áng chừng thấy Nguyễn Trãi lòng dạ ngay thẳng khó đem xử tội, vua Thái Tổ mới tha ra, cho phục chức như cũ. Nguyễn Trãi nhận chức nhưng trong bụng không vui, nhân nói với người thân – Ta theo hoàng thượng nếm mật nằm gai, hơn mười năm một lòng tôn phù. Giờ việc nước đã thành, vua thì ngờ vực bề tôi, giết hại công thần, kẻ thân yêu thì cho vinh hiển, người xu nịnh thì được tin dùng. Khanh tướng thì lập đảng riêng tây, triều đình thì thiếu người can gián, ai nấy chỉ lo sướng thân lợi nhà, không nghĩ đến khổ dân hại nước. Nhớ xưa ở Lam Sơn đọc sách binh; đang lúc đó, chí ta đã để nơi dân đầu xanh kia. Bởi thế, ta ra dự việc nước, gắng sức chèo chống, may ra dân lành bớt phần khổ nhục. Một hôm, vua Thái Tổ cho vời Nguyễn Trãi đến hỏi – Nghĩa lớn mới thành, việc nước việc quân đều chưa quen thạo, làm cách nào để yên dân mở nước? Nguyễn Trãi tâu – Hòa thuận trong nhà nhớ giữ một lòng thân ái, thương yêu dân chúng hãy làm những việc nhân đức, đừng vì ơn riêng mà thưởng bậy, chớ vì giận mình mà phạt bừa; đừng thích tiền của mà xa xỉ bừa bãi, đừng gần thanh sắc mà suồng sẽ hoang dâm, cho đến việc dùng nhân tài nghe can gián, ra một chính sách một mệnh lệnh, phát một lời nói, một việc làm đều phải đúng mực, hợp với lẽ thường, có thế, trên mới đáp ứng được ý trời, dưới mới thỏa mãn được lòng dân, quốc gia mới yên ổn bền vững lâu dài. oạn, Nguyễn Trãi lại tâu – Mến người có nhân là dân, mà như con sông chở thuyền và lật đổ thuyền cũng là dân. Giúp người có đức là trời, nhưng khó tin và rất hay thay đổi cũng là trời. Dám mong bệ hạ siêng năng giữ gìn những việc kính trời chăm dân, chớ nên xem thường. Lê Thái Tổ gật đầu khen phải rồi hỏi – Nay đám đại thần tổng quản và quan lại ở các Viện, Sảnh, Cục tham ô lười biếng nên răn dạy thế nào? Nguyễn Trãi tâu – Phàm người có chức vụ coi quân trị dân đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, hết lòng thờ vua, hết sức chăm dân, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng, bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc nước như công việc của chính mình lấy điều lo của dân làm điều lo cho bản thân. Xin bệ hạ xuống chiếu răn bảo nghiêm cấm; nếu ai không nghe không sửa ấy là kẻ đó tự huỷ diệt mình. Lê Thái Tổ rất vừa ý, thầm khen Trãi thẳng thắn cương trực. Nhưng bấy giờ vua hay ốm đau mệt mỏi, bọn Lê Sát, Lê Vấn dèm pha xu nịnh, lấn lướt người ngay, thâu tóm quyền hành lập vây cánh, Nguyễn Traĩ thấy thế đành thở dài. Có lần, nhân dạo chơi ngoài thành chợt nghe dân nhỏ to bàn tán, một người nói – Trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan hùa nhau kiếm lợi, hối lộ công hành. Một người tên là Cao Sư ãng cũng nói – Thiên tử thì thất đức, đại thần thì hối lộ, dùng toàn là kẻ vô công, có làm điều thiện nào đâu! Nghe vậy, Nguyễn Trãi bèn quay gót, biết thế không thể đừng được, mới dâng biểu xin cáo quan lui về Côn Sơn Hải Hưng sống cuộc đời thanh đạm giản dị. Ngày đêm đọc sách ngâm thơ, thưởng trăng ngắm hoa nhưng lòng Nguyễn Trãi vẫn không vui; hễ nghĩ đến non sông mờ mịt, muôn dân sầu khổ thì không cầm nước mắt, nên có thơ rằng “ Say mùi đao, trà ba chén Tả lòng phiền, thơ bốn câu” . ỗ Mộng Tuân, người bạn đỗ cùng khoa với Nguyễn Trãi có lần đến Côn Sơn thăm đã nói – Nhà quan tri tam quán sự sao mà lạnh lẽo như một dòng nước. Bốn vách tường trống trải xơ xác, chỉ được cái giàu sách vở. Nguyễn Trãi tuy đem thân gửi chốn suối rừng nhưng cũng là miễn cưỡng. Bởi thế, chí ông vẫn để ở nơi dân nước. Tấm lòng ưu ái ấy chẳng lúc nào khuây. Ông thường mượn thơ để gửi niềm trung phẫn “Ao quan thả một bè rau muống ất bụt ương nhờ một luống mùng Còn có một lòng âu việc nước êm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung” Lê Thái Tổ mất. Trước khi băng hà, chừng hối tiếc về lỗi lầm đối với Nguyễn Trãi nên vua di mệnh lại cho thái tử Nguyên Long nên dùng Nguyễn Trãi. Nguyên Long nối ngôi, tức Lê Thái Tông bèn xuống chiếu vời Trãi về kinh. Ông lập tức tiến triều, vào chầu trước bệ tâu rằng – Thần tài sơ đức mỏng, tóc bạc lòng son, tưởng gửi nắm xương tàn nơi quê cũ, may được dịp mây trời ban xuống truyền gọi trở ra. Bệ hạ thương thần như con ngựa già còn kham được roi quất, dấn bước phi lên. Chí thần những muốn bắt chước người xưa lập chí, lòng thần yêu dân chúng nên thường hay lo trước việc thiên hạ chưa lo. Nguyện dốc lòng phơi tấm gan trung, xin bệ hạ cứ bền tín nhiệm. Tiếc thay, Thái Tông mới mười tuổi, việc nước đều do Lê Sát chấp chính chuyên quyền định đoạt khiến Nguyễn Trãi không sao thi thố tài năng để mưu việc ích nước lợi dân. Năm ấy 1434, Thái Tông sai Nguyễn Trãi viết biểu sang nhà Minh cầu phong. Viên nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và Học sĩ Lê Cảnh Xước ỷ thế là tay chân của ại tư đồ tể tướng Lê Sát, đòi đổi mấy chữ, Nguyễn Trãi quắc mắt mắng luôn – Việc chăm dân sao không lo làm? Hiện nay trong nước đương hạn hán, mà có tai nạn ấy chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt! Thúc Huệ khi làm tham tri Bắc đạo đã bòn rút vơ vét của dân, làm cho dân một lộ xơ xác hết cả tiền của. Nay Huệ thấy Trãi nói vậy thì giật mình, căm lắm mới đem câu nói ấy mách với Lê Sát, Lê Vấn. Vấn tức tối, hạch Nguyễn Trãi – Gây ra tai nạn không phải lỗi bọn ty thuộc, mà chính là bởi vua và tướng. Sao ông lại nặng lời như thế? Nguyễn Trãi đáp – Thúc Huệ là kẻ tài thì tầm thường mà lại hay có thói bòn vét. Hắn ở địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu của kho, cốt làm vui lòng vua. Bọn Lê Vấn biết Nguyễn Trãi chẳng phải tay vừa, đành bấm bụng làm ngơ. Mấy năm sau, Thái Tông sai Nguyễn Trãi và viên quan hoạn Lương ăng soạn lễ nhạc dùng trong các nghi lễ của triều đình. ón được ý vua, ăng bày vẽ nhiều thứ nhã nhạc, chế định lắm thứ nghi thức, yến tiệc, phiền hà tốn kém. Nguyễn Trãi bèn vào triều gặp vua can gián. – Thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Nay chế định lễ nhạc thật là đúng thời vậy. Nhưng nếu cội gốc không vững thì lễ nhạc không dựa vào đâu mà đứng được. Nguyện xin bệ hạ yêu thương nuôi dưỡng lấy dân chúng, khiến cho trong xóm làng không có tiếng oán hận sầu than. ó chính là cái gốc của nhạc vậy. Vua nín lặng không nói sao, vẫn để Lương ăng chế định. Nguyễn Trãi và một số triều thần như ào Công Soạn, Nguyễn Truyển, Nguyễn Liễu thấy thế mới họp nhau cùng dâng sớ can vua. Vua không nghe, ăng càng được thế lấn lướt, Liễu giận quá chỉ mặt ăng mắng – Từ xưa tới nay, chưa có bao giờ hoạn quan lại được tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy! Chẳng ngờ, ăng là tay chân của bọn Lê Sát nên Sát bênh mới dèm pha xúc xiểm, khiến Thái Tông bắt tội Liễu thích chữ vào mặt đày đi nơi xa. Nguyễn Trãi thấy chính sự đổ nát, không sao cứu trăm họ cho khắp được, đành dâng biểu cáo quan, lại xin lui về Côn Sơn. Việc ấy là vào năm Thiệu Bình thứ sáu 1438. Nguyễn Trãi – Vụ án vườn vải Nguyễn Trãi có người vợ trẻ tên là Nguyễn Thị Lộ, người Tây Hồ ngoài thành ông Kinh Hà Nội. Nàng là người có nhan sắc, nết na, lại nổi danh về tài văn học nên Nguyễn Trãi đặc biệt yêu dấu. Lê Thái Tông khi đến tuổi trưởng thành mến tiếng sai vời vào cung, cho làm Lễ nghi nữ học sĩ, luôn cho đi theo bên mình và thường đem nhiều việc ra bàn bạc với nàng. Năm ạo Bảo thứ nhất, Nguyễn Thị Anh, vợ thứ tư của Lê Thái Tông sinh con trai là Bang Cơ. Thái Tông bèn tước ngôi ông cung Thái tử của con trai người vợ trước, lập Bang Cơ lên thay. Cũng trong năm đó, vợ thứ năm của vua, Ngô Thị Ngọc Dao có mang. Nguyễn hi Thị Anh sợ Ngọc Dao sinh quý tử thì Bang Cơ con mình có thể mất quyền nối ngôi báu, mới cùng một số quyền thần vu cáo hãm hại. Lê Thái Tông tin theo bắt tội đi đày. Thấy việc oan trái, Nguyễn Trãi bảo nữ học sĩ – Ngô phi tội tình gì mà hoàng thượng đối đãi như vậy. Chẳng qua là Nguyễn phi quá lo xa đến ngôi ông cung nên mới có sự ấy. Nàng hãy tìm cách giải bày với hoàng thượng gỡ oan cho người ngay. Nguyễn Thị Lộ vâng lời, nhân lúc vua bàn chuyện, mới chen vào che chở cho Ngọc Dao. Thái Tông nể vì, đổi tội đi đày đem giam lỏng Ngô phi ở chùa Huy Văn gần Văn Miếu, Hà Nội. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ thương tình, thường sai người ngầm mang thức ăn đến cho. Sau thấy để ở đấy khó yên, lại tìm cách đưa Ngọc Dao ra ở lẩn trong dân chúng ngoài trấn An Bang Quảng Ninh. ến kỳ sinh nở, Ngọc Dao sinh con trai tên là Tư Thành. Việc ấy đến tai bà Nguyễn phi. Bà này giận lắm nhưng nén lòng chờ dịp báo thù. Hai năm sau, năm ại Bảo thứ 3 1442, Lê Thái Tông rời ông Kinh ngự giá đi duyệt võ ở Chí Linh Hải Hưng. Tiện đường, vua ghé lại vãn cảnh Côn Sơn, nhân thể qua thăm vị khai quốc công thần. Nguyễn Trãi cung kính đón rước xa giá theo đúng lễ vua tôi. Thấy vị lão thần đầu tóc bạc phơ mà tinh thần còn quắc thước, vua ướm hỏi – Khanh có nghĩ đến tôn xã mà tạm rời chốn suối rừng, ra gánh vác việc triều chính? Nguyễn Trãi tâu – Chỉ sợ thánh thượng không dùng. Trãi này dẫu chết dám rời lòng son. Vua Thái Tông rất đẹp lòng bèn cho nhận chức cũ, lại gia phong làm Tham tri cai quản quân dân ông, Bắc hai đạo. Nguyễn Trãi vái lạy nhận mệnh. Các trung thần và Lễ nghi nữ học sĩ đi theo hộ giá đều đến chúc mừng. Sau đó, vua rời xa giá lên đường. Nguyễn Trãi theo xe loan đưa tiễn mấy dặm, vua truyền bảo mấy lần, mới chịu lui về, sửa soạn lên kinh nhậm chức. Dọc đường, vua dừng xe nghỉ đêm ở Lệ Chi viên, tục gọi là Trại Vải, làng ại Lai, lộ Bắc Giang Hà Bắc. Thình lình nửa đêm vua bạo bệnh băng hà. Các quan hộ giá và Nguyễn Thị Lộ mật rước thi hài vua về kinh. Tin dữ ấy loan ra. Triều đình lập ông cung thái tử Bang Cơ lên nối ngôi, tức vua Lê Nhân Tông. Bấy giờ, Nhân Tông mới hai tuổi. Bà Nguyễn phi làm Hoàng Thái hậu, trông nom việc nước thay con. Bọn quyền thần theo bà tức khắc cho bắt Nguyễn Thị Lộ đưa đến ình Cúc kết tội giết vua. Nữ học sĩ ngày đêm bị tra khảo tàn nhẫn. Thái hậu Nguyễn Thị Anh ngồi sau rèm sai hình quan trước sau chỉ hỏi – Có phải mày dâng thuốc độc cho đức vua? Nguyễn Trãi chủ mưu xui mày có phải không? Nguyễn Thị Lộ không chịu nổi nhục hình, đành nhận xằng vậy. Thế là Thái hậu bèn truyền chỉ cho các lực sĩ hỏa tốc về Côn Sơn tróc nã Nguyễn Trãi đóng cũi giải về. Lực sĩ gươm tuốt trần điệu Nguyễn Trãi đến trước sân đình. Lũ quyền thần theo lệnh của Thái hậu được dịp hùa nhau luận tội – Cứ xét theo thường điển, kẻ chủ mưu thí nghịch thiên tử tất ghép tội giết cả ba họ, tước hết tước quyền, tịch biên gia sản. Nay nạn nước mới dẹp yên, kỷ cương chính sự mới lập, bọn loạn thần hãy còn nhấp nhỏm ngấp nghé nên phải nghiêm trị để làm răn! Hai quan hoạn inh Phúc, inh Thắng vốn là tay chân của Lê Sát, Lê Vấn nên chẳng ưa gì Nguyễn Trãi nhưng thấy việc hồ đồ như vậy, cũng không nín được, buột miệng bảo nhau – Trời không có mắt để quan hành khiển mắc oan! Chẳng ngờ, Thái hậu nghe tiếng bèn khép tội tử hình, sai giết luôn để thị oai. Các quan trong triều còn có lòng trung nghĩa biết không thể cởi oan cho Nguyễn Trãi, đành nuốt hận bó tay. Lúc sắp bị chém, Nguyễn Trãi ứa nước mắt, ngửa mặt lên trời kêu lớn – Con xin chắp tay lạy thày, lạy cha. Chẳng may con mắc oan nên thày, cha phải chịu nhục lây, mà con cháu cũng bị tàn hại. Lòng này xin trời đất soi xét. oạn, ung dung chịu chết. Ai nghe thấy đều thương xót không cầm được nước mắt. Sau này, con bà Ngô phi Ngọc Dao lên làm vua, tức vua Lê Thánh Tông, biết rõ tấm lòng trung nghĩa ngay thẳng của Nguyễn Trãi có khen rằng – Lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê! Rồi thương ông vô tội, Thánh Tông bèn xuống chiếu rửa oan, truy tặng ông làm Thái sư Tuệ quốc công và cấp cho con cháu một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng. Nguồn
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi đã trải qua nhiều thăng trầm từ khi giúp Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa cho đến vụ án Lệ Chi viên nổi tiếng trong lịch sử. Phần I – Tìm minh chủ dựng cờ phục quốc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn vai đeo túi nải tới gần ngã ba đường, chợt nghe thấy tiếng khóc từ trong làng xa vọng tới. Vừa dừng lại, hai người đã thấy một toán giặc Minh hùng hổ khiêng lợn, gà, gạo, từ trong làng đi ra. Một đám cháy, rồi mấy đám cháy nữa xuất hiện. Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn tái người khi nghe thấy lẫn trong tiếng nổ có những tiếng kêu thảm thiết. Trần Nguyên Hãn bặm môi, đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi. Hiểu ý, Nguyễn Trãi khoát tay – Hiện giờ ta chẳng giúp gì được cho dân mọn đâu. Đừng nóng mà hỏng việc. Hai người định quay đi thì lại có tiếng kêu thất thanh. Ngoảnh lại, Nguyễn Trãi đã nhìn thấy không phải chỉ có một toán mà là nhiều toán giặc vừa đánh nhau với trai tráng trong làng vừa lùa vội đàn trâu, bò chạy xô ra đường. Chẳng đành lòng, nhưng nghĩ mình đang phải trốn giặc vào Lam Sơn tìm minh chủ dựng cờ phục quốc, nên Nguyễn Trãi thở dài nói với Nguyên Hãn – “Chở thuyền làm lật thuyền cũng là dân” [1]. Nay giặc Minh tích điều ác, nghịch lòng dân thì chúng càng mau chết. Ta chẳng đang vì cuộc sống no lành của muôn họ đó sao? Thoáng thấy Nguyễn Trãi rơm rớm nước mắt. Trần Nguyên Hãn bối rối xốc túi nải, nét mặt đăm đăm – Tình hình này ta chẳng thể theo lộ quan tới Lam Sơn được đâu. Đành phải xuyên sơn, chịu vất vả vậy. – Có sá gì! Miễn là tránh được mắt giặc. Ta cứ hướng theo con đường lai kinh mà đi. [2] Rẽ vào đồi rồi Trần Nguyên Hãn còn chưa hết bực – Đường đất chưa đi được là bao mà bảy lần thấy giặc chặn đường cướp giật, hành hạ dân mình. Tiểu đệ những tưởng chỉ ở nơi hang ổ của giặc, chúng cậy đông mới lộng hành đến thế! Nguyễn Trãi cướp lời – Trần huynh mải đọc binh pháp không đi đây đó nên không thấy đó thôi. Tôi chẳng may phải mười năm luân lạc nên mắt thấy tai nghe đã nhiều. Ở đâu có giặc là ở đó có dân mọn các làng không được yên sống. Từ lâu vẫn muốn hỏi về việc làm của bạn trong mười năm xa cách nhưng chưa tiện. Nhân Nguyễn Trãi nhắc tới những năm luân lạc, Trần Nguyên Hãn lựa lời hỏi những điều còn băn khoăn – Kể từ ngày đại huynh bị Trương Phụ bắt giam rồi được tha, người mình khởi binh chống giặc cũng nhiều mà sao đại huynh không theo phò ai cả. Ngày hai vị Vương họ Trần [3] dấy binh, thanh thế đã lớn mà nghe ngóng mãi cũng không thấy tiếng đại huynh? Nguyễn Trãi chậm rãi – Kể về thanh thế thì không chỉ có cuộc dấy binh của Giản Định, Trùng Quang mới là lớn. Và không phải tôi không có ý theo phò. Ngặt vì khởi binh đánh giặc là làm một việc lớn. Mà phàm mưu việc lớn, phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Duy nhân nghĩa gồm đủ thì công việc mới thành được. Lẽ ấy tôi không tìm thấy trong các cuộc khởi binh đánh giặc mà tôi biết. Ngày hai vị vương họ Trần, dẫu có danh tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân giúp rập, đã có lúc lấy được Nghệ An, Thuận Hóa. Nhưng thiếu chiến sách hay nội bộ chia rẽ, lại khôi phục cơ nghiệp nhà Trần, lòng dân không mong thì nghiệp lớn sao thành? Trần Nguyên Hãn băn khoăn – Đại huynh nói chí phải. Chính vậy mà tiểu đệ lo không biết hào trưởng Lê Lợi có đúng là người có chí lớn như ta hằng mong không? – Cứ phải mắt thấy tai nghe thì mới chắc. Nhưng cứ như cung cách làm việc của hào trưởng họ Lê thì ta có thể gửi chí mình được. Bắt đầu đường dốc, trời lại tối, hai người ngừng câu chuyện, đổi vai đeo nải dấn bước, người hơi ngả về phía trước. Trên kia, cao hơn cả những ngọn đồi cao nhất, là mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng xa xa, giữa bầu trời ngàn vạn ngôi sao lấp lánh. Tâm sự lúc nửa đêm Nguyễn Trãi giật mình choàng dậy sau giấc ngủ mê mệt, hậu quả của những ngày đi bộ. Chỉ đến lúc thấy qua rặng cây thưa, dòng sông Bùi kéo thành một vệt dài lấp loáng, lượn giữa hai dải rừng tối đen, Nguyễn Trãi mới nhận ra, mình đang ở trên một quả đồi thuộc vùng Tốt Động. Biết chẳng thể ngủ lại được. Nguyễn Trãi muốn đánh thức Trần Nguyên Hãn dậy để đi cho được đường đất, nhưng thấy bạn ngủ say nên không nỡ. Đêm tĩnh mịch quá – Nguyễn Trãi kêu lên se sẽ – Nguyễn chưa từng sống ở nơi này, trong hoàn cảnh này mà sao cảnh vật đêm nay thân thiết, quen thuộc như đã từng qua. Phải rồi – Nguyễn Trãi thầm nhủ – Cũng vẫn chòm sao tháng mười trên nền trời chuyển lạnh như thế này của hơn hai mươi năm trước, Nguyễn từ biệt Côn Sơn để trở về với cha ở Nhị Khê, sau khi mẹ rồi ông ngoại lần lượt từ trần. Tự dưng nhớ lại chuỗi ngày ấy. Nguyễn thấy thương nhớ cha da diết. Tiếng rằng cha đỗ tiến sĩ lại là con rể một tể tướng thời Trần, nhưng trước khi đổi tên Nguyễn Ứng Long thành Nguyễn Phi Khanh, ra làm quan cho nhà Hồ, cha vẫn phải sống cuộc sống nghèo nàn bằng nghề dạy học. Rồi cũng vào mùa này gần hai mươi năm trước, sau khi Nguyễn đỗ Thái học sinh [4], rồi cùng làm quan một triều với cha, Nguyễn những tưởng được đem tài sức cùng cha giúp Hồ Quý Ly thực hiện những canh tân, làm cho dân giàu nước mạnh. Nhưng giặc Minh xâm lược, cha con Hồ Quý Ly, cùng các triều thần trong đó có cha, đều bị giặc bắt. Khi biết cha sắp bị giải sang Ngô [5] và chuyến đi này không có ngày về, Nguyễn thương khóc cha khôn xiết. Ngày cha và vua tôi Hồ Quý Ly bị giải về Kim Lăng Nam Kinh, Nguyễn và em là Nguyễn Phi Hùng theo đoàn tù lên tận ải Pha Lũy [6] với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cho cha đến lúc mãn chiều xế bóng. Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh vĩnh biệt đau lòng nơi địa đầu Tổ quốc ấy, Nguyễn nào quên được. Nguyễn đã bắt gặp cái nhìn vừa âu yếm vừa nghiêm khắc của cha, khi nhân lúc vắng, cha vẫy Nguyễn lại gần và bảo “Con là người có học, có tài nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?”. Nguyễn cứ ân hận mãi lúc đó không kịp giãi bày tâm sự, hứa hẹn với cha. Nhưng lời giáo huấn của cha khiến Nguyễn thấu hiểu đạo làm con và bổn phận của người dân trong lúc đất nước bị giặc giày xéo. Thù nhà nợ nước đêm ngày thúc giục Nguyễn Trãi tìm phương nghĩ kế để rửa nhục cho nước cho nhà. Nhưng từ bấy đến nay việc lớn cứ canh cánh bên lòng mà nào Nguyễn làm được gì? Phải chăng Nguyễn Trãi đã để năm tháng trôi qua một cách vô ích, hay đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gây dựng việc lớn? Nguyễn không tủi hổ với vong linh cha và bổn phận một người dân; bởi vì hơn mười năm trời qua là hơn mười năm Nguyễn lênh đênh nơi góc biển chân trời, tìm người nghĩa khí, ôm ấp hy vọng đánh giặc, giải phóng non sông, đem lại thái bình cho muôn họ. Nguyễn nhớ lại bài thơ gửi chí mình làm từ ngày mới thoát khỏi tay Trương Phụ. Nguyễn đọc nhỏ “Thần châu [7] từ thuở nổi can qua Rên xiết muôn dân đến thế mà. Tử Mỹ [8] ôn trung Đường xã tắc Bá Nhân [9] chan lệ Tấn sơn hà. Thu về đất lạ lòng nhiều cảm Đời biến lâu nay khách chóng già. Ba chục năm trời danh tiếng hão Quay đầu muôn việc giấc nam kha.” Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần Kể từ ngày vào Lam Sơn, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn phải làm những công việc về nghề nông do Lê Lợi cắt đặt. Nguyễn thấy rõ, Lê Lợi có tài điều khiển công việc, nhất là lòng độ lượng bao dung đối với mọi người, Nguyễn đã dày công để tâm dò xét động tĩnh của Lê Lợi. Nhưng ngoài mấy lời nhận xét Lê Lợi thường mua dầu nhiều hơn rượu, đêm đêm hay vắng nhà, tính tình trầm ngâm, kín đáo. Nguyễn không biết gì hơn. Tuy chưa nỗi thất vọng về con người mà ngày đêm Nguyễn hy vọng gửi chí mình, nhưng rõ ràng trong đám lá xanh thẳm của niềm tin ấy, đã điểm những chiếc lá vàng. Vì vậy, đêm nay Nguyễn phải quyết dò xem thực hư việc Lê Lợi dựng cờ phục quốc! Nguyễn không thể cứ sống nửa tin nửa ngờ trong lúc mối nhục mất nước, cảnh giặc nướng dân đen, vùi con đỏ vẫn ngày đêm giày vò tâm can Nguyễn. Trời vừa tối, thấy Lê Lợi vắng nhà, Nguyễn Trãi bèn vào rừng trèo lên một cây cao, nhìn bao quát bốn phía. Bỗng từ hang núi cách khá xa trang trại của Lê Lợi, thấp thoáng có ánh lửa hắt ra. Đoán Lê Lợi đang họp hội kín ở đó, Nguyễn Trãi hồi hộp lần mò tìm đến. Vừa tới cửa hang, Nguyễn đã nhìn rõ Lê Lợi cùng với chừng mười người nữa đang xúm quanh chiếc bàn đá, trên bàn bày biện nhiều sách mà Nguyễn nhận ra là các binh thư. Hồi hộp xen lẫn sung sướng. Nguyễn Trãi thấy Lê Lợi nói với mọi người – Thế là mọi việc đã cắt đặt đâu vào đó. Các ngươi hãy cố gắng vì nghĩa lớn để rửa nhục mối hờn mất nước. Không nén được niềm vui quá lớn và đột ngột, Nguyễn Trãi vừa tiến vào hang vừa nói, giọng xúc động – Thưa chúa công! Bao năm nay đây mai đó tìm được người nghĩa khí, tôn phò minh chủ, bàn kế cứu nước, tới nay tới mới gặp. Lê Lợi giật mình tuốt gươm xông tới phía Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi ngỡ ngàng dừng lại – Tôi đến đây xin làm nông phu chính là vì công việc phục quốc của chúa công. Nghe ra Lê Lợi hạ gươm, mời Nguyễn Trãi ngồi hỏi chuyện. Khi biết người mới vào là danh sĩ Nguyễn Trãi, con Trung thư thị lang, Hàn lâm viện học sĩ [10] Nguyễn Phi Khanh, Lê Lợi và mọi người vui mừng khôn xiết. Lê Lợi nắm tay Nguyễn Trãi, cung kính nói – Thật là trời đã đem đến cho ta một lương phu. Lê Lợi lần lượt giới thiệu những người xung quanh với Nguyễn Trãi. Lại một lần nữa, Nguyễn Trãi sửng sốt nhận ra tên tuổi nhiều người đã từng nghe nhưng chưa biết mặt. Nhưng nhớ ra điều gì hệ trọng, sau một phút tần ngần, Nguyễn Trãi rút từ trong tay áo tập sách đưa đến trước mặt Lê Lợi – Nhân đọc binh thư, lại phần nào thấu được lòng dân, xét được địch tình trong những năm luân lạc, tôi làm ra Bình Ngô sách này, mong có ngày dùng đến. Nay dâng chúa công xem xét [11]. Trong lúc Lê Lợi trân trọng đón lấy Bình Ngô sách, Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Đinh Lễ kéo Nguyễn Trãi đến gần mình vui vẻ nói – Anh em tôi vẫn đoán sẽ có ngày tiên sinh tìm đến và dâng diệu kế. Nguyễn Trãi mỉm cười – Trãi này nghe chúa công chiêu hiền đãi sĩ, mưu dấy binh thu lại mười lăm đạo nước đã mất, nên cùng Trần Nguyên Hãn tìm đến. – Cả Trần tiên sinh cũng đã tới rồi ư? – Lê Lợi đột ngột quay phắt về phía Nguyễn Trãi hỏi – Thưa chúa công, người nông phu vừa đến với tôi chính là Trần huynh đó. Lê Lợi giọng vui hẳn lên – Trời đã cho ta quân sư lại thêm danh tướng. Có nhân tài giúp rập, việc lớn ắt mau thành. Từ đấy, mừng vì tìm được minh chủ, lại được minh chủ chấp nhận Bình Ngô sách, giữ luôn bên mình bàn đại sự, Nguyễn Trãi phấn chấn để hết tâm trí giúp Lê Lợi trong mọi việc. Một hôm, người dân Lam Sơn xôn sao về cái tin có nhiều người nhặt được lá rừng ghi tám chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” [12]. Tin kỳ lạ đó được kể lại, truyền đi như lệnh trời truyền xuống, gây nên những chấn động mạnh mẽ trong nhân dân. Nghĩa quân đem lá nộp cho các tướng. Các tướng nộp cho Lê Lợi. Lê Lợi lúc đầu cũng ngạc nhiên. Nhưng sau khi xem xét thấy rõ có người dùng mỡ viết lên lá, kiến ăn mỡ hiện lên thành chữ, thì biết ngay là kế của ai rồi. Cầm một chiếc lá đặt trước mặt Nguyễn Trãi, Lê Lợi mỉm cười nói – Chẳng hay “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” là ý trời đã định thực chăng? Nguyễn Trãi bình thản trả lời – Thưa chúa công! Cho là ý trời cũng đúng, vì giặc thì dùng chính lệnh khắt khe, hình phạt tàn khốc, làm việc bạo tàn, khiến thần người đều căm giận. Ta khởi binh chống giặc, giải thoát cho dân là làm theo lòng dân. Thuận theo lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết. Ý dân là ý trời. Cho nên cho là ý trời đã định thì cũng thế. Lê Lợi gật gù – Ta có lời khen ngợi diệu kế của quân sư đó. Cũng từ đó, hào trưởng các nơi tìm đến ngày một tráng trong vùng đến xin theo nghĩa quân ngày càng đông. Núi rừng Lam Sơn náo động tiếng reo hò của nghĩa quân, ngày đêm luyện tập võ nghệ. Thấy cuộc dấy binh đã thuận lợi, ngày mồng 2 tháng giêng năm Mậu Tuất [13], theo yêu cầu của Nguyễn Trãi và các tướng, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và xuất quân dẹp giặc cứu dân. Phần II – Cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi Tiến quân ra Bắc Chiếc lầu trúc cao ngất được dựng lên vội vã ngay trên bãi đất trước làng Bồ Đề [14]. Trên tầng lầu thứ hai, trước chiếc kỷ thấp, giấy bút, nghiên mực bày biện sẵn sàng, Nguyễn Trãi đang đăm chiêu suy nghĩ về việc vào thành Đông Quan dụ hàng Vương Thông ngày hôm sau [15]. Nguyễn biết, vào gặp tên giặc cáo già, lắm quỷ kế trong lúc hắn còn hy vọng trông chờ viện binh, không phải là không nguy hiểm. Nhưng Nguyễn có chính nghĩa, có lẽ phải, và Nguyễn nào quản đến tính mạng mình. Điều Nguyễn đang bận tâm là phải tìm một đối sách thích hợp vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng cốt làm cho Vương Thông nhận rõ điều hơn lẽ thiệt. Nay quân giặc tâm trí đã nản, kế đã cùng, nhưng Vương Thông đường đường là một tên đại tướng, hắn cần giữ thể diện. Nếu không mở mắt cho hắn thấy vua Tuyên Đức nhà hắn đang bận cuộc chiến tranh với Thát Đát, nhất là để hắn thấy rõ lòng nhân nghĩa cao cả của vua ta, thì không dễ hắn đầu hàng. Nhớ tới những lần đã vào thành dụ giặc hàng [16], Nguyễn thấy rõ, mỗi lần giáp mặt với chúng, tuy nguy hiểm, nhưng dễ cảm hóa được chúng hơn. Ý nghĩa ấy củng cố thêm quyết định của Nguyễn lần vào Đông Quan này. Bỗng tự trong làng, tiếng trẻ nhỏ hát vọng lên lầu nghe rõ mồn một “Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”. Câu hát ngộ nghĩnh lặp đi lặp lại, khiến Nguyễn bất giác mỉm cười. Nguyễn rời chiếc kỷ, bước ra hiên lầu, hướng về phía lũ trẻ vừa hát vừa cắt cỏ. Tiếng hát trẻ thơ lại được cất lên trên mảnh đất này – mảnh đất mà tháng trước còn rên xiết đau thương nằm trong tay giặc. Và, không phải chỉ có cái làng nhỏ bé này, mà là cả một vùng non sông rộng lớn đã như sống lại từ khi nghĩa quân của Lê Lợi và Nguyễn Trãi trùng điệp kéo về, vây chặt lấy Đông Quan, căn cứ lớn cuối cùng của giặc. Phải – Nguyễn Trãi xúc động thầm nhủ – nghĩa quân đã về. Nghĩa quân đã về trong sự đón tiếp ân cần ruột thịt của nhân dân suốt các ngả đường hành quân và cả trong tiếng hát ngộ nghĩnh nở trên môi các em bé. Nhưng để có được chiến thắng này thật không dễ dàng. Nguyễn Trãi bỗng nhớ lại cuộc hành quân thần tốc, táo bạo của nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc mấy tháng trước. Lúc ấy cả miền đất rộng lớn từ Hải Vân đến Tam Điệp [17], quân giặc chỉ còn cố thủ được ở các thành Tây Đô, Diễn Châu, Nghệ An và Thuận Hóa [18]. Chúng đang ngày đêm trông chờ viện binh ở Đông Quan để cứu. Thấy sức mình đã mạnh, Lê Lợi có ý định đem quân ra Bắc đánh thẳng vào Đông Quan, thì lại được tin vua Minh cử Thành Sơn hầu Vương Thông, đốc suất 10 vạn tinh binh sang tăng viện và trao cho Vương Thông quyền thống lĩnh toàn quân thủy bộ thay Trần Trí. Thấy quân giặc tăng viện, nhiều tướng nghĩa quân ngần ngại chưa muốn tiến quân ra Bắc, Lê Lợi phân vân hỏi Nguyễn Trãi – Khi trước quân sư nói, thấy giặc mạnh thì phải tránh trong sự đánh nhau, đánh lâu mới thắng thì nhụt đồ binh khí. Ta đã nghe quân sư chỉ vây không cốt hạ thành Nghệ An để chia quân đi đánh các nơi sơ hở của giặc. Đó là diệu kế. Nhưng nay, 10 vạn tinh binh của Vương Thông đã ngạo nghễ vào đất Bắc. Chẳng hay nếu ta tiến quân ra đó là đánh vào chỗ mạnh của giặc chăng? Hiểu được tâm trạng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đáp – Tâu Vương Thượng! Trong lúc giặc tăng viện cho thành Nghệ An ta lấy Diễn Châu, Thanh Hóa là tránh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu! Nhưng trong cách dụng binh cũng có lúc phải mau chóng như thần, máy then đóng mở như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát chợt nóng chợt rét, thay đổi khôn lường thì mới giành được thắng lợi. Nay tiến ra Bắc, giặc Minh đông, ta phải ở thế lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Nhưng nếu dùng kỳ binh [19] đánh quân hăng, lừa quân mệt, được thời có thế, hợp với lòng dân thì yếu hòa mạnh. Dám mong Vương thượng cứ cho quân tiến đánh. Lê Lợi không giấu được niềm vui – Quân sư nói chính hợp ý ta. Rồi ngay đêm ấy, trái với phán đoán của nhiều tướng, Lê Lợi cho hội binh ở Lỗi Giang, rồi cử ba đạo quân theo ba đường khác nhau [20] do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Thả, Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân và 3 thớt voi rầm rộ tiến ra Bắc. Khuyên Lê Lợi tiến quân, nhưng thấy quân mình ít so với giặc, nên dù tin vào chiến thắng, Nguyễn Trãi vẫn không khỏi lo lắng từng ngày trông chờ tin tức. Chỉ hơn nửa tháng sau, tin đạo quân Phạm Văn Xảo đốc suất đã thắng lớn ở Ninh Kiền diệt giặc truyền về khiến cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi thêm vững tin vào chiến sách của mình. Rồi trận Cầu Mới, Xa Lộc; đặc biệt trận thắng lẫy lừng ở Tốt Động, Chúc Động làm cho Nguyễn Trãi xúc động đến cả đêm không ngủ. Thế là chỉ mấy nghìn quân của Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đã cả phá 10 vạn tinh binh của Vương Thông, giết đến 5 vạn quân địch, bắt sống đến một vạn tên, làm tiêu tan mọi quỷ kế của Vương Thông. Khao quân sau trận đại thắng ấy, Lê Lợi liền rời đại bản doanh từ Lỗi Giang ra Bắc, và đại binh do Lê Lợi, Nguyễn Trãi thân đốc suất đã đánh thắng tới Đông Quan, dồn giặc Minh như lũ chuột chạy vào thành. “Nhong nhong ngựa ông đã về Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”. Tiếng hát của các em bé lúc xa, lúc gần lại cất lên. Tiếng hát kéo Nguyễn Trãi trở về thực tại. – Thưa quân sư! Vương Thượng cho lệnh triệu quân sư – Nguyễn Trãi giật mình quay lại thấy người nghĩa quân đang đứng ở bậc lên xuống của tầng lầu. Nguyễn Trãi trìu mến nhìn người nghĩa quân – Ngươi về đi. Ta sẽ lên ngay. Nguyễn Trãi đi lên tầng lầu thứ nhất. Theo hướng đó, Nguyễn nhìn rõ thành Đông Quan hiện còn trong tay giặc, nằm phơi minh run rẩy. Hai đạo viện binh của giặc kéo sang Vừa trong thấy Nguyễn Trãi, Lê Lợi đứng dậy đón và vui vẻ nói – Lưu Thanh đem quân thành Tam Giang ra hàng. Thế là chỉ hai tuần trăng ta đã thu lại được các thành Nghệ An, Điêu Diêu, Diễn Châu, Thị Cầu, Tam Giang [21] không tốn một mũi tên. – Thế còn các thành Tây Đô, Tân Bình, Thuận Hóa, Khâu Ôn, Xương Giang [22] thần cũng đã có thư dụ? – Chỉ còn Xương Giang, Khâu Ôn chưa hàng mà thôi. Ta có lời khen mừng quân sư đó. – Người Ngô hình nặng chính ác, mất hết lòng người. Vương thượng thì lấy nhân thay bạo, lấy trị thay loạn. Bởi vậy, sĩ dân thỏa tấm lòng trung nghĩa, gắng rửa cái hổ lớn cho đất nước. Còn công của thần đâu đáng kể. – Rồi đổi giọng, Nguyễn Trãi tiếp – Hiện Vương Thông xin hòa, hẹn ngày đầu tháng, nhưng quân giặc trong thành vẫn đào bới, khiêng vác nhốn nháo. Rõ là chúng chưa thật bụng. Lê Lợi giận dữ – Đồ phản trác! Quân sư hãy viết cho hắn bức thư nữa, nói rõ điều hay lẽ thiệt cho hắn biết. Bằng không, ta đã động binh thì quân chúng sẽ không còn mảnh giáp. Bỗng tầng lầu rung lên tiếng chân người vội vã. Xoay người về phía cửa, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thấy một nghĩa quân mồ hôi đẫm áo vừa thở gấp, vừa rút từ tay áo cuộn giấy bọc sáp, cung kính đưa cho Lê Lợi. – Tâu Vương thượng! có tin cấp báo từ ải Pha Lũy gửi về. Chuyển bức thư đã xem xong cho Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói qua hàm răng nghiến chặt – Thằng nhãi Tuyên Đức! Mi lại sai mười lăm vạn viện binh cố tình gây thảm họa binh đao với ta. Lập tức, Lê Lợi cho triệu các tướng đến lầu Bồ Đề ngay trong đêm ấy. Trong buổi họp, nhiều tướng xin hạ gấp thành Đông Quan rồi đốc toàn lực ra đánh quân cứu viện cứu giặc. Nhưng y theo kế của Nguyễn Trãi, Lê Lợi nói với các tướng – Đánh thành là hạ sách, ta đánh thành vững hàng tháng, hàng năm không hạ nổi, quân ta sức mệt khí nản. Nếu viện binh của giặc đến thì mặt trước mặt sau lưng đều bị giặc đánh, đó là con đường nguy. Sao bằng nuôi lấy sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh của giặc bị phá thì quân trong thành tất phải hàng. Làm một việc được cả hai, đó mới là toàn kế vậy. Nguyễn Trãi nói tiếp những điều đã bàn với Lê Lợi – Trong hai đạo viện binh của giặc thì đạo của Kiềm Quốc công Mộc Thạnh có tuổi, trải việc đời đã nhiều, đường đi lại hiểm trở, tất hắn không chịu tiến binh một cách xốc nổi. Còn đạo của An Viên hầu Liễu Thăng cậy có quân lắm, ngựa nhiều, hắn ỷ thế khinh thường ta mà tiến quân ào ạt. Vậy ta phải dốc sức diệt đạo viện binh này. Diệt được đạo này thì quân Mộc Thạnh không đánh mà tan; Vương Thông cùng kế phải xin hàng. Ngừng một lát, Nguyễn Trãi tiếp, hướng về phía Lê Lợi – Còn lẽ nữa, theo ý thần, muốn chắc thắng đạo binh 10 vạn của Liễu Thăng trước, phải hạ kỳ được thành Xương Giang đã. Bởi vì thành Xương Giang nằm trên lộ Lạng Sơn đến Đông Quan. Đánh Xương Giang là đánh thông đường để đại binh ta lên tận Lạng Sơn chặn giặc. Tin vui thắng trận Một nghĩa quân phóng ngựa vun vút vào doanh trại. Nhẩy từ trên mình con ngựa chiến mã đã sùi bọt mép xuống đất, người nghĩa quân vội lên chiếc lầu trúc cao ngất. – Tâu Vương thượng, thưa quân sư – người nghĩa quân vừa thở gấp vừa nói – quân ta đã đại thắng Liễu Thăng bị chém ở núi Mã An cùng với hơn vạn đầu giặc. Thôi Tụ, Hoàng Phúc bị lừa đến Xương Giang rồi bị bắt sống. Tiều thần được lệnh đi gấp về báo tiệp và nộp các ấn tín của bọn tướng giặc. Lê Lợi, Nguyễn Trãi vui mừng khôn xiết. Rồi, sau khi thân mật phủi lớp bùn trên tà áo chẽn của người nghĩa quân và tiễn ra tới cửa, Nguyễn Trãi trở lại nói với Lê Lợi – Vận nước thế là đã định đoạt. Thần kính mừng Vương thượng. Lê Lợi cảm động – Nếu ta nghe lời các tướng dốc sức đánh Vương Thông trước rồi mới cự với Liễu Thăng, hoặc không gấp hạ thành Xương Giang thì ta đâu thắng lợi nhanh chóng dường này. Chiến thắng này là nhờ chiến sách của quân sư. Không có quân sư ta đâu có ngày nay. Tiếng reo hò mừng tin thắng lớn của nghĩa quân làm náo động cả quân doanh. Hòa trong niềm vui đó, Lê Lợi mỉm cười hỏi Nguyễn Trãi – Bây giờ quân sư định liệu thế nào? Như đã lường trước sự việc, Nguyễn Trãi đáp – Mộc Thạnh chưa chịu tiến binh. Vương Thông quỷ quyệt phản trắc là trông vào toán viện binh của Liễu Thăng. – Bây giờ ta gửi cho mỗi tên tướng giặc ít tù binh cùng với sắc thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng – Lê Lợi tươi cười ngắt lời Nguyễn Trãi – thì Mộc Thanh chỉ có chạy, Vương Thông chỉ có hàng. Ý quân sư định thế chứ gì? – Tâu Vương Thượng – Nguyễn Trãi phấn chấn đáp Quả là ý thần định thế. Nhưng “chó cùng rứt giậu” nên vẫn phải đề phòng chúng liều chết. Vương thượng nên mật sai Phạm Văn Xảo một phen ra tay đánh Mộc Thạnh. Còn thần, xin hạ lệnh cho các tướng vây chặt Đông Quan, một mặt dụ hàng, một mặt sẵn sàng giáp chiến. Lê Lợi trầm ngâm – Lòng nhân nghĩa của quân sư cảm hóa được cả cỏ cây, muôn vật. Nhưng lần này Vương Thông còn tráo trở thì chúng không còn được tha tội chết. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo Đêm đã gần sáng mà Nguyễn Trãi vẫn chong đèn ngồi trước kỷ cắm bút viết. Nguyễn không còn nhớ Nguyễn đã thức mấy đêm như thế, và không phải Nguyễn không khỏi cảm thấy mệt mỏi. Song, niềm vui thắng trận, mơ ước sắp rửa được nợ nước thù nhà, đã tiếp sức cho Nguyễn. Không vui sao được, khi mấy hôm trước, tin đạo viện binh của Mộc Thạnh bị đánh tan, Mộc Thạnh phải một mình một ngựa chạy tháo thân về nước. Còn Vương Thông, dẫu còn cứng cổ chưa hàng, nhưng trước sau hắn sẽ phải đầu hàng. Nguyễn đang bắt tay thảo Bình Ngô đại cáo theo ủy thác của Lê Lợi. Nguyễn say sưa sống lại từng chặng gian nan của cuộc kháng chiến với tất cả những rung động sâu sắc của tâm hồn mình. Nguyễn dùng bút, ngả người vào thành ghế, cầm lấy bản thảo, đọc lại mấy đoạn đã viết từ đêm trước “… Xét như nước Đại Việt ta Thật là một nước văn hiến … … … … … … … … … … … … Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên đều chủ một phương. Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Mà hào kiệt không bao giờ thiếu…” Nguyễn đọc lại hai lần đoạn văn và hài lòng vì nó đã lột tả được lòng tự hào về non sông đất nước; đặc biệt tuyên ngôn được dụng ý; Nước Đại Việt và nước Ngô đều từng làm chủ một phương như nhau. Đọc lại, nhưng có lúc Nguyễn Trãi phải nghiến răng lại, có lúc muốn đứng vùng lên, y hệt như Nguyễn tận mắt nhìn giặc Minh hành hạ dân mình “… Thui dân đen trên lò bạo ngược Vùi con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe Cậy binh gây hấn ác chưa gần hai chục năm…” Nguyễn đọc tiếp “… Chính lúc nghĩa binh mới nổi. Là lúc thế giặc đang hăng…” Nguyễn buông tập giấy, đắm mình trong suy tưởng. Mười năm trời! Mười năm nằm gai nếm mật “… Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần; Lúc Khôi Huyện quân không một lữ…” Nhưng cũng là mười năm bền bỉ, dẻo dai, mưu trí và dũng cảm, quyết tâm chống giặc để những chiến công chói lọi nở hoa và ghi khắc mãi vào sử sách, vào lòng người. Hào hứng ôn lại từng chặng chiến thắng của nghĩa quân; nhớ lại lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, phải rỏ nước mắt thịt voi trận mà nay nghĩa quân đã trùng trùng, điệp điệp đang siết chặt lấy Đông Quan, Nguyễn tưởng như mình đang đi giữa hàng quân, giẫm lên xác giặc. Nguyễn ghi vội những ý mới nảy. “… Voi uống nước, nước sông phải cạn Gươm mài đá, đá cũng phải mòn … … … … … … … … … … … … Tổ kiến hổng làm toang đê vỡ Trận gió rung, rụng trút lá khô…” Nguyễn lại ngả người vào thành ghế, căng óc tìm ý rồi lại viết. Cho đến lúc phải lên đèn, Nguyễn mới viết những câu cuối, lòng phấn chấn lạ thường “… Ôi một gươm đại định tạo thành công nghiệp vô song Bốn biển lặng yên, rộng ban duy tân tuyên cáo Báo cáo xa gần mọi người cùng nghe” [23]. Lê Lợi cho mời Nguyễn Trãi vào đại bản doanh Bồ Đề để cùng tiếp sứ của Vương Thông, Sơn Thọ đến “xin hòa” và rút quân về nước. Nghe Nguyễn Trãi, Lê Lợi ưng thuận cho hòa. Nhưng lúc ấy, các tướng lĩnh vì căm hờn sự tàn ngược của giặc nên đã khẩn khoản xin đánh. Một lần nữa, Lê Lợi lại hỏi ý kiến Nguyễn Trãi, nhân thể để Nguyễn nói với các tướng, Nguyễn Trãi tâu – Giặc Minh hung tàn, lòng người chứa oán đã sâu, nay muốn giết hết bọn chúng đi để trả thù xưa không phải là không có lẽ. Tình hình quân giặc lúc này, mình muốn phá vào sào huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm cừu không phải là một sự khó khăn. Nhưng thần trộm nghĩ như vậy sẽ kết mối thù với triều Minh quá sâu… Chi bằng ta nên thừa lúc này, kẻ kia lâm vào thế cùng, mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước. Lê Lợi và các tướng đều nghe theo. Ngày 22 tháng 11 năm 1427, ở ngoài cửa Nam thành Đông Quan, một đài cao được dựng lên vội vã. Bọn Vương Thông mở cửa thành lúc nhúc chui ra làm lễ tuyên thệ trước mặt Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng nghĩa quân, xin nộp thành để bảo toàn tính mạng rút về nước. Tám vạn quân giặc sống xót sau đó lủi thủi ra đi. Trong lễ chiến thắng tưng bừng ấy, Lê Lợi, Nguyễn Trãi dẫn đầu đoàn quân, rầm rộ tiến vào Đông Quan. Phần III – Những năm tháng làm quan Tâm sự của Nguyễn Trãi Đã được trả lại tự do nhưng Nguyễn Trãi buồn lắm. Dù Nguyễn Trãi vẫn được phong tước Quan phục hầu; về quan chức, Nguyễn vẫn giữ chức Nhập nội Hành khiển [24] lại bộ thượng thư, kiêm quản công khu mật viện như khi luận công ban thưởng sau chiến thắng giặc Minh, nhưng Nguyễn không được vua Lê Thái Tổ [25] tin dùng nữa. Nguyễn không lạ gì Hàn Tín trước khi bị Hán Cao Tổ giết đã biết rằng, những kẻ dùng mình sẽ không dùng mình khi đế nghiệp đã thành. Nguyễn còn hiều về cuối đời, Lê Lợi lắm bệnh, thái tử Nguyên Long còn nhỏ, lại ham chơi bời nên rất lo ngại uy tín của một số công thần. Nguyễn chưa gặp phải nạn lớn [26] là vì trong tay Nguyễn không có binh quyền; có lẽ còn vì đời Nguyễn quá trong trắng, đến nỗi vua khó gán tội cho Nguyễn. Nguyễn vẫn còn làm quan. Nhưng làm quan mà như đi ở ẩn. Nỗi khổ tâm bị Lê Lợi bạc đãi; cảnh sống nghèo túng giày vò khiến Nguyễn phải bặm môi, kìm nước mắt khi gửi nỗi lòng vào bài thơ mới viết. Nguyễn ngậm ngùi đọc lại “Góc thành Nam lều một gian No nước uống thiếu cơm ăn. Con đòi trốn dường ai quyến Bầy ngựa gầy thiếu kẻ chăn Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá Nhà quen xứ xửa ngại nuôi vằn Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải Góc thành Nam lều một gian”. Tuy nhiên, Nguyễn không cực lòng vì phải sống trong cảnh nghèo túng. Nguyễn bao giờ chẳng tự nhủ “Bữa ăn dù có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là” [27] “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh Áo bỏ quen cật vận xênh xang”. [28] Điều khiến cho Nguyễn đau đớn, thất vọng là hoài bão trị nước, an dân, giúp nghiệp trị bình thế là không làm được. Từ những ngày còn đọc binh thư, Nguyễn đã ước rằng, sau khi đánh đuổi được giặc Minh, sẽ xây dựng một xã hội thịnh trị như xã hội vua Nghiêu, vua Thuấn [29]. Xã hội mà Nguyễn muốn kiến lập sau khi đuổi giặc Minh là xã hội mà vua phải xứng đáng làm vua. Người làm vua “phải trọng nhân nghĩa”, làm điều nhân nghĩa, phải “thích nghe, thích xét”, phải “rủ lòng thương yêu muôn dân”, chớ “thưởng bậy vì tư ân, chớ phạt bừa vì tư nộ”. Sau vua, Nguyễn chú ý đến những người “cư quan nhiệm chức”. Nguyễn muốn “người có chức vụ coi quân trị dân”, phải theo đạo nhân nghĩa của vua. Người đó không được “che ác với vua” không “kết lập bè đảng”, không “vụ ích cho riêng mình”. Người “cư quan nhiệm chức” còn phải là người “rất thẹn thùng” về “đẹp cung thất, cao đài tạ”, và cũng “thẹn thùng” về những việc làm “theo ý mình, ức lòng người”. Họ phải luôn nhớ rằng “những quy mô to lớn, cao lồng lộng đều là sức lao khổ của nhân dân”, khi “ăn lộc” phải “đền ơn kẻ cấy cày”,không được “sưu cao thuế nặng, vơ vét của dân cho nhiều”. Khuyên răn người khác, trước hết Nguyễn tự răn mình “- Cơm kẻ bất nhân ăn, ấy chớ Áo người vô nghĩa mặc, chẳng thà” [30]. Nguyễn còn tự nhủ lòng “- Lòng thế bạc đen dầu nợ biến Ta thì nhân nghĩa chớ loàn đan” [31]. Sống giữa triều đình phong kiến, Nguyễn chưa bao giờ mưu cầu cuộc sống giàu sang phú quý. Nguyễn luôn vui với cuộc sống giản dị, thanh cao và khuyên mọi người sống giản dị, thanh cao. Nguyễn nhớ Đỗ Mộng Tuân, bạn đỗ cùng khoa với Nguyễn, có lần đến Côn Sơn phải nói “Nhà quan tri tam quán sự mà lạnh lẽo như một dòng nước, bốn vách trống trải xác xơ nhưng giàu sách vở” [32]. Nguyễn lặng đi ngồi suy tưởng. Nguyễn cũng không nhớ Nguyễn ngồi như thế từ bao giờ. Nguyễn chỉ thấy càng suy tưởng càng thấy chán nản. Nguyễn tự hỏi Phải chăng, ước muốn xã hội thịnh trị, mọi người đều no đủ, thư thái “mặt trời mọc thì đi làm, mặt trời lặn thì ngủ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn” là trái với ý vua Thái Tổ. Lại nữa, cuộc sống thanh đạm, vui với cái nghèo của Nguyễn, cũng là cái cớ để bọn Lê Sát, Lê Vấn ghen ghét, kéo bè đảng chống lại Nguyễn? Không thể khác được, Nguyễn quyết định trở về Côn Sơn với tâm sự u uất “Ngoài năm mươi tuổi ngoài chưng thế [33] Ắt đã tròn bằng nước ở bầu”. Bài ca Côn Sơn Trở về Côn Sơn vui với rặng thông, rừng trúc, lánh xa triều đình bội bạc, Nguyễn Trãi thấy tâm hồn thư thái đôi chút. Chưa lúc nào Nguyễn làm nhiều thơ như lần trở về Côn Sơn này. Làm thơ để nói ý mình về nhiều lẽ đời, đã thực sự trở thành niềm vui của Nguyễn. Mang theo tâm sự của con người thất vọng trước những hoài bão lớn, Nguyễn biết dù thơ vẫn có cái hùng, cái đẹp của tạo vật, nhưng không giấu đươc một nỗi buồn trải ra mênh mông. Nguyễn đọc lại bài “Côn Sơn ca” vừa làm hôm trước mà lòng còn xúc động “Côn Sơn có khe Tiếng nước chảy rì rầm Ta lây làm đàn cầm. Côn Sơn có đá Mưa xối rêu xanh đậm Ta lấy làm chiếu thảm. Trong núi có thông Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng Ta tha hồ nghỉ ngơi ở trong. Trong rừng có trúc Nghìn mẫu in biếc lụa Ta tha hồ ngâm nga bên gốc…” Nguyễn dừng lại thở dài ngao ngán. Nguyễn đã muốn đắm mình trong muôn màu hoa lá để làm kẻ “di thần di lão”, mà cảnh như sinh tình, nhắc nhở “… Người sao còn chưa đi về Nửa đêm bụi bặm hoài lăn lóc Muôn chung nghìn đỉnh có làm gì Nước lã cơm rau miễn tri túc…” Nguyễn lướt qua để đọc phần cuối, lòng băn khoăn như khi hạ bút làm thơ “… Người đời trăm tuối Rốt cuộc như thảo mộc Vui buồn lo sướng đổi thay nhau Một tuần một héo vẫn tương túc Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên Chết rồi ai vinh với ai nhục? Nhân gian nếu có bọn sao do Khuyên hãy nghe ta ca một khúc” [34]. Trở về Côn Sơn, vùng ra khỏi vòng vây ngột ngạt của bọn Lê Sát, Lê Vấn, Nguyễn không muốn nhắc đến chúng nữa. Nhưng Nguyễn không làm được điều ấy. Nguyễn vẫn thấy bọn tham quan như loài cỏ xấu, cứ mọc lên xanh tươi, mà Nguyễn thì bất lực chưa chặn chúng lại được. Nguyễn cầm bút ghi ý thơ “… Lòng người một sự yêm [35] chưng một Đèn khách mười thu, lạnh hết mười Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn Hoa thì hay héo cỏ thường tươi”. Có lúc Nguyễn định yên tâm với việc “cày nhàn câu vắng”, nhưng Nguyễn nào hết băn khoăn “Còn một lòng âu lo việc nước Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung”. Vì vậy, sau khi Lê Lợi chết, được vua Lê Thái Tông vời đến, Nguyễn Trãi lại sẵn lòng ra giúp nước [36]. Trở lại chốn quan trường Ngay từ những ngày đầu trở lại triều đình, thấy vua còn trẻ lại ham chơi bời, mặc cho bọn Lê Sát lộng hành Nguyễn không khỏi băn khoăn. Nhưng tin vào sự trong sạch của mình, lo đến dân đến nước, Nguyễn yên lòng gánh vác công việc. Nhưng bọn tham quan đâu có để cho Nguyễn làm việc. Năm 1434, vua Lê Thái Tông sai Nguyễn Trãi viết biểu văn để sang nhà Minh cầu phong. Tờ biểu viết xong viên nội mật viện Nguyễn Thúc Huệ và viên học sĩ Lê Cảnh Xước muốn đổi mấy chữ. Vốn đã biết bọn này dốt nát lại hay đục khoét dân, bè đảng của đại tư đồ Tể tướng Lê Sát, Nguyễn Trãi nổi giận mắng chúng – Đổi với chác gì? Các ông giỏi sao không viết thay tôi? Hiện nay trong nước đương hạn hán mà sở dĩ có tai nạn ấy chính là tự lũ các ông. Các ông chỉ là đồ thích sưu cao thuế nặng vơ vét của dân cho nhiều, nên trời mới giáng tai tỏ ý trừng phạt. Thúc Huệ đem lời Nguyễn mách với Lê Sát, Lê Vấn. Bị chỉ trán vạch tên, bọn chúng lồng lộn tức tối. Theo lệnh Lê Sát, Lê Vấn tức tốc gặp Nguyễn Trãi, mặt tái đi vì tức giận – Gây ra tai nạn không phải là lỗi tự bọn ti thuộc, mà chính bởi vua và tướng, sao ông quở trách nặng lời như vậy? Nguyễn Trãi nghĩ bụng bọn này đem vua ra dọa mình đây – Nhưng Nguyễn không nao núng, trả lời – Thúc Huệ là kẻ tài thì rất tầm thường, mà lại hay có thói bòn vét, hắn ở vào địa vị then chốt, mỗi khi có việc tâu bày chỉ thấy hắn bàn sự đục khoét của dân cho nặng để làm giàu cho công khố, cốt làm vui lòng quân thượng. Hằn thù cũ chưa qua thì Nguyễn Trãi lại đụng đầu ngay với Lê Sát. Cùng năm 1434, có bảy tên trộm tái phạm đáng tội chết. Vua Thái Tôn hỏi ý Nguyễn, Nguyễn tâu – Hình phạt không bằng nhân nghĩa là rõ ràng rồi. Bây giờ cùng một lúc giết bảy mạng người thì e không phải việc làm có đức cao. Lê Thái Tông nghe ra. Thấy vậy, Lê Sát bảo Nguyễn Trãi, giọng mỉa mai – Ông là người nhân nghĩa, có thể cảm hóa kẻ ác trở nên người thiện, thì đây xin giao bọn trộm cho ông. Nguyễn Trãi đáp ngay, không lộ sự khó chịu – Bọn chúng là đồ hung ác gian giảo. Pháp luật và chế độ của triều đình còn không răn chữa được chúng nữa là Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nổi. Về sau, vua nghiêng theo ý Nguyễn Trãi, chỉ khép tội chém hai tên cầm đầu, còn năm tên khác, khép vào tội phạt lưu. Từ đấy, bọn Lê Sát, Lê Vấn, Lê Ngân càng thêm thâm thù Nguyễn Trãi và chúng tìm mọi cách hãm hại Nguyễn, nhổ cái gai làm chúng ngày đêm khó chịu ở trong triều. Biết vậy, Nguyễn càng giữ mình cho sạch và không bỏ lỡ dịp nào để chặn lại hành vi tội lỗi của chúng, làm điều nhân nghĩa cho muôn họ. Đầu năm 1437, thấy Nguyễn Trãi có tài và trước sau giữ trọn tấm lòng trung, Lê Thái Tông lại sai Nguyễn Trãi và hoạn quan Lương Đăng trông coi làm việc xe loan và thẩm định nhã nhạc. Thấy rõ vua có chiều hướng ăn chơi xa xỉ trong lúc dân mọn đang đói khổ, Nguyễn Trãi lựa lời tâu – Thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính là phải thời lắm. Song cây không có gốc không thể đứng vững, không có văn không thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng theo chiếu chỉ thẩm định nhã nhạc, không dám không hết lòng; song học vấn sơ sài, nông cạn sợ trong ánh thanh luật khó làm được cho hài hòa. Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến trong thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu… Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Vua Thái Tông ban khen và nhận lời tâu của Nguyễn. Câu chuyện về “lễ nhạc” tưởng đã yên ổn. Nào ngờ cuối năm ấy, Lương Đăng lại dâng kiến nghị về nghi thức các buổi coi trầu hoặc yến tiệc trong những ngày sinh nhật nhà vua hay tết Nguyên đán. Thấy nghi thức của Lương Đăng soạn ra có nhiều chỗ lố lăng. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Truyền, Đào Công Soạn, Nguyễn Liễu tâu với vua – Lễ nhạc là cốt ở người mới đặt ra được. Phải là bậc tài đức như Chu Công rồi mới sau không chê trách được việc đặt lễ, chế nhạc. Nay nhà vua để cho hạng bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc. Như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao? Vả lại việc làm của Lương Đăng đều là dối vua lừa dưới, không căn cứ vào đâu cả. Lương Đăng gượng gạo tâu – Thần là kẻ vô học, không biết chế độ thời xưa ra sao. Những việc bây giờ làm đó chỉ là biết thế nào làm thế ấy mà thôi. Nguyễn Liễu vốn ghét bọn tay chân của Lê Sát nên không kìm được tức giận, nói cho hả – Muôn tâu bệ hạ! Từ xưa tới nay chưa có bao giờ hoạn quan lại được tự chuyên làm nát thiên hạ như vậy. Vừa lúc đó tên hoạn quan Đinh Thăng, vốn là bộ hạ của Lê Sát, từ trong nội đi ra, nghe thấy, mắng lớn rằng – Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ? Nếu nát thì phải chém đầu ngươi. Quá nghe lời xúi xiểm, gièm pha của bọn Lê Sát, vua Thái Tông cho bắt giam Nguyễn Liễu, giao cho hình quan xét xử. Liễu bị kết tội chém đầu. Nhưng vua xuống chiếu, giảm xuống tội thích vào mặt và bắt đi đày xa. Biết có ở lại triều đình cũng không “cứu cho khắp” được muôn họ, Nguyễn Trãi cáo quan trở về Côn Sơn. Đó là năm 1438. Quan Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi Sớm ngày 2-2-1442, trước điện Hội Anh, các sĩ nhân bốn phương trẩy kinh thi Hội đã lều chõng sẵn sàng, đứng thành hàng, theo lệnh viên quan giám thị [37] chờ đợi. Ở hàng đầu của đám sĩ nhân, Nguyễn Trực làm ra bộ quan trọng nói với bạn bên cạnh – Kỳ thi này do quan Nhập nội Hành khiển Nguyễn Trãi chủ sự đấy! Người bạn tỏ ra hiểu biết – Quan Hành khiển mới từ Côn Sơn hồi triều ba hôm trước. Thấy quan trẩy kinh, anh em mình phấn chấn lắm. Được người liêm khiết, đức độ lại là bậc văn chương siêu việt như vậy chủ sự, thì chẳng còn ai là không công bằng. Nghe được câu chuyện, một sĩ nhân ở hàng sau, ngạc nhiên hỏi – Tôi nghe đồn quan Hành khiển đã xin cáo quan mấy năm trước rồi mà. – Ồ, quan anh chẳng biết gì cả – Nguyễn Trực đáp – Quan về Côn Sơn được một năm thì đức vua lại vời ra giúp nước. Lúc ấy quan đã 61 tuổi và mấy lần khước từ không được. – Thế ra đức vua đã tin dùng quan chứ không như tiên đế [38]. Nguyễn Trực sôi nổi nói thêm, cố làm ra hiểu thời cuộc – Bây giờ đức Thái Tông đã nhìn thấy triều đình đổ nát nên nắm lấy mọi quyền hành và trừng trị bọn quan xu nịnh. Vua đã cách chức tể tướng Lê Sát, giết Hạ Đằng Đắc, giáng chức bọn tay chân của Lê Sát là Lê Văn Linh, Lê Huy, rồi cuối cùng giết cả Lê Sát và Lê Ngân. – À ra thế! Nếu không được quan anh chỉ bảo, ở chốn rừng xanh, tôi đâu biết. Câu chuyện chấm dứt bằng một hồi chuông lanh lảnh cất lên. – Hoàng đế ngự giá – tiếng viên quan nội giám tuần xước [39] thét lớn. Các sĩ nhân nín thở, cúi rạp mình hồi lâu. Vừa được bình thân, Nguyễn Trực giọng vui vẻ, nói thầm với bạn – Đấy, quan Hành khiển, người có bộ râu bạc, đứng sau đức vua ấy. Có nhiều tiếng xuýt xoa – Trông quan điềm đạm mà quắc thước quá nhỉ! Lại một hồi chuông hiệu dóng dả. Các nhân sĩ đứng như hóa đá. Vua Thái Tông thân ra đầu bài văn sách “Luận về phép trị nước của các đế vương”. Xong thủ tục, vua lui về cung. Nguyễn Trãi cùng ban giám khảo cũng lần lượt về chỗ ở theo sự sắp đặt của viên quan giám thị. Khi đã ngồi trước kỷ sơn son phủ gấm, một lần nữa Nguyễn Trãi suy nghĩ về đề thi do Nguyễn thảo ra và được vua chấp thuận. Thâm ý của Nguyễn là muốn cho các sĩ nhân biết lĩnh hội phép trị nước của tổ tiên, nhân thể cũng là cách hướng các sĩ nhân phải đem học vấn ứng dụng cho đời, biết kiến giải thời cuộc, mong giúp vào việc hưng quốc an dân. Rồi Nguyễn lan man nhớ lại kỷ niệm ngày Nguyễn đi thi và cảnh Nguyễn hiện tại. Nguyễn vẫn thầm mừng lần này trở lại triều nhận chức cũ kiêm trung thư sảnh tam quán sự [40] và coi cả quân dân hai dạo Đông – Bắc mà vua mới gia phong, là thời kỳ Nguyễn bằng lòng nhất. Và, vua Thái Tông do nắm lấy triều đình đã bắt đầu nghe lời tâu bày về chủ trương của Nguyễn. Hơn thế nữa, ông vua 17 tuổi này cũng đã nảy sinh tấm lòng tưởng mộ Nghĩa Thuấn, khoan nới việc hình ngục. Cứ đà ấy, Nguyễn sẽ có cơ hội thi triển tài năng, dựng cho nước được nền thịnh trị thái bình. Nguyễn mải suy nghĩ cho đến lúc có hiệu lệnh giục các sĩ nhân nộp quyển chấm và làm thủ tục cho đề thi khác. Mấy ngày sau cùng các bậc văn bá ngồi chầu vua nghe đọc các quyển thi để định cao thấp, vua Thái Tông đã y theo Nguyễn Trãi lấy Nguyễn Trực đỗ trạng. Phần IV – Vụ án Lệ Chi viên Tin dữ từ Lệ Chi viên Nguyễn Trãi đã chuẩn bị xong chuyến đi kinh lý dài ngày ở Bắc Đạo. Côn Sơn vốn đã đẹp, nhưng chưa bao giờ Nguyễn thấy đẹp như sáng nay. Rừng trúc, rừng thông nhuốm nắng sớm trông như tấm thảm lụa vàng óng. Cũng chưa bao giờ Nguyễn phấn chấn như lần đi kinh lý này. Nguyễn vui hơn tuần trăng trước, vua Thái Tông nhân đi duyệt võ ở Chí Linh Hải Dương đã ngự giá tới Côn Sơn thăm Nguyễn. Cuộc đón rước định theo nghi lễ vua tôi, nhưng trái với lệ thường, vua cho được thân mật như người nhà. Vua mới đi được một tuần trăng. Cả Nguyễn Thị, người vợ yêu của Nguyễn, cùng được vua cho theo xa giá hồi triều. Lưu luyến xen lẫn mừng vui. Nhưng trước hết là vui vì Nguyễn thấy rõ vua Thái Tông ngày càng tin dùng và kính trọng Nguyễn. Nguyễn Thị cũng được vua phong chức lễ nghi nữ học sĩ, cho ra vào nơi cung cấm, dạy dỗ các cung nhân. Thay đôi hài cỏ bằng đôi giày trận, Nguyễn thong dong lên yên ngựa, cùng toán lính hầu cận. Ngựa chạy gằn để lại sau căn nhà là ấm cùng rừng thông nhấp nhô, nô giỡn với nắng, với tiếng nhạc ngựa tản nhanh trong gió sớm. Ngựa qua một chỗ ngoặt, Nguyễn bỗng thấy một kỵ binh đang phóng con chiến mã chạy ngược chiều với Nguyễn. Vừa kịp nhận ra người lính cẩm vệ quen thuộc của triều đình, thì người đó đã phóng từ trên mình ngựa xuống đất, mặt tái đi – Thưa quan Hành khiển! Vua Thái Tông đã băng hà ở vườn Lệ Chi [41] sau khi đi duyệt võ ở Chí Linh về. Và Tôn phu nhân đã bị bắt giam từ đó. Nguyễn Trãi đánh rơi sợi cương đang cầm trong tay, giọng lạc đi – Vua Thái Tôn băng hà, Thị Lộ vợ ta bị bắt. Căn nguyên bởi đâu? Người lính cẩm vệ run run đáp – Quan phụ chính nói rằng Tôn phu nhân đã đầu độc vua do quan chủ mưu. Ngày hôm nay quan Thái phó Lê Khả theo mệnh vua để lại, sẽ lập hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi. Đã có mật lệnh bắt quan và quý quyến ba tộc. Nghe tin dữ, con lén đi từ đêm báo quan để quan định liệu. – Ta có ngờ đâu đến nông nỗi này. – Nguyễn Trãi nói, giọng đau đớn – cả bọn chúng đã đồng mưu để hãm hại ta! Rồi sau phút bàng hoàng, nét mặt Nguyễn Trãi rắn đanh lại. – Cảm ơn người đã vì ta mà không kể đến tính mạng – Nguyễn lắm lấy cương ngựa – Cổ nhân từng nói Ngọc tuy đập vụn được nhưng không hủy được sắc trắng. Trúc đốt cháy được nhưng không hủy được gióng thắng. Ta dù phải chết oan theo mệnh trời nhưng lòng ta ngay, người đời sẽ chứng rõ. Nói xong, Nguyễn Trãi cho toán lính hầu cận trở về, còn Nguyễn thúc ngựa gióng thẳng tới Kinh. Vốn yêu Nguyễn như cha, toán lính hầu cận nài nỉ xin theo Nguyễn hồi triều. Họ không kìm được nước mắt khi biết Nguyễn đang đi vào cõi chết. Vụ án oan nổi tiếng triều Lê Nửa tháng sau, một trong những người lính hầu cận của Nguyễn Trãi trở lại Côn Sơn kể lại cho dân ở đó rằng Ngày hôm quan Hành khiển tới Kinh 15-9-1442, lập tức quan bị bắt và bị tống ngục tối. Ngày hôm sau, bà Nguyễn Phi Nguyễn Thị Anh người có tư thù với quan Hành khiển, ngồi sau rèm trông nom việc nước thay con mới 2 tuổi vừa được nối ngôi vua [42] đã sai hình quan đem vụ án “Nguyễn Trãi chủ mưu đầu độc vua” ra xử trước Đình Cúc [43]. Không ai cầm được nước mắt – Người lính nói – Khi thấy Tôn phu nhân bị giải ra trước, đầu tóc rũ rượi, máu mồm, máu mũi loang lổ trên mặt, trên cổ. Còn quan Hành khiển thì bị trói quặt cánh khuỷu, tóc đã bạc trắng, người gầy tọp hẳn đi, bị giải ra sau. Trong khi tra Tôn phu nhân, hình quan trước sau chỉ gặng hỏi một điều – Có phải ngươi đã tiến độc cho đại đức hoàng đế và cứu mưu thí nghịch ấy là do Nguyễn Trãi chủ sự không? Nghe hỏi, Tôn phu nhân trước sau như một kêu oan. Nhưng mỗi lần như thế, hình quan lại thét tên lính xúm vào đánh đập tàn nhẫn. Bị đánh đau, có lúc Tôn phu nhân lặng đi chết ngất. Cuối cùng không chịu được cực hình, Tôn phu nhân phải nhận như lời quan hỏi. Thế là quan Hành khiển phải khép vào tội tru di tam tộc. [44] Ngừng lại để lau những giọt nước mắt vừa trào ra, người lính kể tiếp – Ba ngày sau trên pháp trường dày đặc lính cấm vệ, sau khi viên quan đề hình tuyên đọc bản án, lần lượt quan Hành khiển, Tôn phu nhân và tất cả các con cháu đều bị chém. Phải nhìn cái chết thê thảm của quan Hành khiển – Người lính nói, giọng trầm hẳn đi – tất cả người xem đều khóc than khôn xiết. Hai viên hoạn quan [45] lỡ miệng than oan cho quan Hành khiển, cũng bị đem chém đầu. Còn nữa đây, người lính lục tìm trong túi áo, tờ giấy gấp vuông vắn đưa ra trước mặt mọi người nói – tôi còn sao được bài thơ cảm thán của quan Hành khiển làm trước khi chết. Một thanh niên tự nhận là học trò của Nguyễn Trãi, tay run run đón lấy bài thơ rồi đọc to cho mọi người cùng nghe “Cuộc đời chìm nổi mấy mươi năm Núi cũ khe xưa ước đã lầm. Danh giá bỗng mang vòng hoa thực Lòng ngay khôn gỡ miệng quân phàm. Tự văn chưa mất lòng còn đoái Định mệnh thôi đành chết cũng cam. Khó gửi nửa lời lên bệ ngọc Tỏ lòng oan tủi buổi tù giam”. Đọc xong bài thơ, người thanh niên òa lên khóc nức nở. Những người xung quanh cũng vừa khóc theo vừa ngậm ngùi kể cho nhau nghe những kỷ niệm êm đẹp về Nguyễn Trãi mà năm tháng đã khắc sâu vào lòng dạ họ. Vua Lê Nhân Tông [46] một hôm cùng các văn quan trong triều lên Bí thư các xem di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động nói với quần thần – Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng. Không may bị kẻ phụ gây biến mà người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương. Hai mươi năm sau, kể từ khi Nguyễn Trãi bị hại, vua Lê Thánh Tông [47] xuống chiếu tẩy oan cho Nguyễn Trãi và cấp cho con cháu Nguyễn 100 mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị “khai quốc công thần” chết oan. Trong khúc “Quỳnh uyển ca”, vua Thánh Tông nhận rằng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” [48]. Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê Chuyện kể về Nguyễn Trãi – Theo Quỳnh Cư Chú thích trong truyện Nguyễn Trãi Câu nói này, tư tưởng này, Nguyễn Trãi sẽ nhắc lại trong tờ “Chiếu về việc làm bài Hậu tư huấn để răn bảo thái tử”. Từ Hà Nội theo đường quốc lộ 6 sang vùng Chương Mỹ vào Tây Hòa Bình – Ninh Bình tới Thanh Hóa. Giản Định đế Trần Ngỗi và Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng. Năm 1440, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, tức tiến sĩ. Minh Thái Tổ lúc mới khởi binh, dựng nước là nước Ngô. Nay là Hữu Nghị Quan. Thần châu dùng để chỉ nước nhà một cách quý mến. Tử Mỹ tức Đỗ Phủ, thi hào đời Đường. trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường đau đớn ôm lòng cô trung với nhà Đường. Bá Nhân Chu Nghi đời Tấn, làm thượng thư tả bộc xạ. Sau khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông cùng các danh sĩ yến hội ở Tân Đinh, nhìn non sông mà ứa lệ. Năm 1401, Hồ Hán Thương phong cho Phi Khanh chức quan này. Bình Ngô sách không nói đến việc đánh thành mà chỉ chú ý vào việc đánh vào lòng người. Được Lê Lợi chấp nhận, tư tưởng này chỉ đạo suốt cuộc kháng chiến chống Minh. Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi. Tức ngày 7-2-1418. Thôn Phú Hựu, Gia Lâm, Hà Nội. Nguyễn Trãi đã vào gặp Vương Thông một lần. Nguyễn Trãi đã vào dụ hàng các thành Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa, Tây Đô,… Theo Trần Huy Liệu, trong sách Nguyễn Trãi, Nhà xuất bản khoa học, trang 114. Tam Điệp ở Ninh Bình, Thành Tây Đô ở Thanh Hóa. Thành Diễn Châu ở Diễn Châu, Nghệ An ngày nay. Kỳ binh có nghĩa như quân du kích, đánh du kích. Đạo thứ nhất do Phạm Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả chỉ huy mang quân và một voi chiến ra miền Thiên Quan Nho Quan, Quảng Oai, Quốc Oai, Gia Hưng,… Đạo thứ hai do Bùi Bị, Lưu Nhân Chú chỉ huy, đem quân và 2 voi chiến tiến vào miền đất Thiên Trường Nam Định. Đạo thứ ba do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy đem quân tinh nhuệ chọc thẳng vào Đông Quan uy hiếp giặc. Thành Tam Giang ở mạn Việt Trì, Phú Thọ ngày nay, Thành Thị Cầu ở Hà Bắc ngày nay. Thành Xương Giang ở làng Thọ Xương, huyện Bảo Lộc, Lạng Giang. Người đương thời và người đời nay đều thán phục và cho Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là “Thiên cổ hùng văn”. Chức quan văn chỉ sau có Tể Tướng. Lê Lợi lên ngôi vua, được tôn là Thái Tổ nhà Lê. Năm 1420, Trần Nguyên Hãn đệ nhất công thần bị bắt, nhảy xuống sông tự tử. Phạm Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác, bị giết. Cũng năm ấy, Nguyễn Trãi bị hạ ngục, về sau được tha. Thơ “Nối chí mình” bài số 3. Thơ “Tức sự” bài số 4. Nguyễn từng tâu với vua Lê Thái Tông “Thần chuyên đọc điển phần, chí những muốn việc cổ nhân đã muốn. Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”. Thơ “Thự thân” bài số 4. Thơ “Trần tình” bài số 3. “Nhất điều thủy lãnh tri tam quán Từ bích gia bần phú lục kinh”. Ngoài cuộc đời. Thơ chữ Hán, bản dịch của Đào Duy Anh. Yêm là chán. Trước khi chết có lẽ Lê Lợi nhận thấy lỗi lầm của mình nên đã dặn Nguyên Long Thái Tông phải đặt Nguyễn Trãi vào chức vị xứng đáng. Chức quan trông coi, chỉ bảo, giám sát sĩ nhân trong cuộc thi. Chỉ Lê Lợi. Viên quan giữ gìn kỷ luật trật tự, giám sát cuộc thi. Tam quán gồm Nho lâm quán, Sùng văn quán, Tú lâm cục. Đây là chức quan coi về văn hóa giáo dục, lễ nghi trong nước. Tục gọi là Trại Vải ở làng Đại Lải, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh nay là huyện Gia Lương, Bắc Ninh. Cuối năm 1440, Nguyễn Thị Anh, người vợ thứ 4 của Thái Tông Thái Tông có 5 vợ chính thức sinh Bang Cơ. Ngày tháng sau, Thái Tông tước ngôi Đông cung thái tử của Nghi Dân con người vợ thứ ba để lập Bang Cơ làm Thái Tử. Cũng trong năm đó, người vợ thứ 5 của Thái Tông là Ngô Thị Ngọc Dao có mang, Thị Anh sợ Ngọc Dao sinh quý tử thì ngôi vua thái tử của Bang Cơ sẽ mất, nên đã vu khống cho Ngọc Dao và xin vua khép tội voi giày, Thái Tông nghe Thị Anh xử Ngọc Dao vào tội phát lưu. Thấy oan ức Nguyễn Trãi bàn với Nguyễn Thị Lộ lúc này đang làm lễ nghi học sĩ vào xin vua Thái Tông, cứu Ngọc Dao. Nể Thị Lộ vua đổ tội phát lưu sang an tri, giam ở chùa Huy Văn gần Văn Miếu. Nguyễn Trãi, Thị Lộ thường cho người mang thức ăn đến cho Ngọc Dao. Ở đó sợ chưa yên, Thị Lộ, Nguyễn Trãi cho người đưa Ngọc Dao vào An Bang Quảng Yên. Về sau Ngọc Dao sinh ra Tư Thành Lê Thánh Tông. Những việc đó đều đến tai Thị Anh. Từ đó Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ, vẫn chờ cơ hội để trả thù thì xảy ra vua Thái Tôn chết đột ngột ở Lệ Chi Viên. Thị Anh đã nắm lấy dịp này để trả thù. Cơ hội trả thù lúc này càng dễ vì Bang Cơ đã lên làm vua, Thị Anh được ra thỉnh chính trông nom việc nước cùng con. Nơi xử án trước triều đình. Tất cả con và cháu trai bị giết; vợ và con gái, cháu gái sung làm tì thiếp. Đinh Phúc, Đinh Thắng. Làm vua từ năm 1443 đến 1453. Làm vua từ năm 1460 đến 1469 Ức Trai là hiệu của Nguyễn Trãi.
Phú quý lòng hơn phú quý danh. Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Chính trực, Danh tiếng, Lòng tốt Thế sự, trai yêu thiếp mọn Nhân tình, gái nhớ chồng xưa. Tác giả Nguyễn Trãi Sửa mình chỉ biết làm điều thiện là vui Lập thân vi tất cần đọc nhiều sách Tu kỷ tri vi thiện lạc Tri thân vi tất độc đa thư Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Bản lĩnh Làm biếng ngồi ăn lở núi non. Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Lười biếng Nên thợ, nên thầy vì có học No ăn, no mặc bởi hay làm. Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Chăm chỉ, Học hỏi Cơm kẻ bất nhân, ăn, ấy chớ, Áo người vô nghĩa, mặc, chẳng thà. Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Phẩm cách Càng thuở già, càng cốt cách Một phen giá, một tinh thần Tác giả Nguyễn Trãi Từ khóa Nhân cách
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn TrãiNguyễn TrãiVnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh cùng các bạn bài viết về sự nghiệp và cuộc đời của nhà danh nhân Nguyễn Trãi để tìm hiểu và tham khảo giúp chúng ta hiểu rõ và cuộc đời ông và các tác phẩm nổi Trãi chữ Hán 阮廌, hiệu là Ức Trai 抑齋, 1380–1442, là một anh hùng dân tộc Việt Nam, một danh nhân văn hóa thế sửQuê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của ông Nguyễn Phi Khanh, vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái-con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà thần nhà HồNguyễn Trãi sống trong thời đại đầy biến động dữ dội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Ly lên thay, lập ra nhà Hồ, đổi tên nước là Đại Ngu có nghĩa là An Vui Lớn.Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi đều làm quan cho nhà Hồ. Nhưng chẳng bao lâu quân Minh sang đánh nước Đại Ngu. Nhà Hồ thua trận, cha con Hồ Quý Ly cùng các triều thần bị bắt sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi truyền lúc ấy, Nguyễn Trãi muốn giữ tròn đạo hiếu, đã cùng em trai là Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho đất nước, ông đã trở về và bị giặc Minh bắt giữ ở Đông văn trong khởi nghĩa Lam SơnNguyễn Trãi bỏ trốn tìm theo Lê Lợi. Các tài liệu nói khác nhau về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa. Có tài liệu nói ông tham gia từ đầu, có tài liệu nói đến năm 1420 ông mới theo Lê Lợi. Ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo để lật đổ ách đô hộ của nhà Minh, trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi vua Lê Thái Tổ sau này trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn bản trả lời quân Minh cho Lê biệt trong giai đoạn từ 1425, khi quân Lam Sơn trên đà thắng lợi, vây hãm nhiều thành trì của quân Minh, Nguyễn Trãi thường viết thư gửi cho tướng giặc trong thành để dụ hàng hoặc làm nản ý chí chiến đấu của tướng 1427, quân Lam Sơn giải phóng vùng Bắc Bộ, đánh tan viện binh của Vương Thông. Thông rút vào cố thủ trong thành Đông Quan. Vua Minh sai Liễu Thăng và Mộc Thạnh chia làm 2 đường, cầm hơn 10 vạn quân sang cứu viện. Lúc đó quân Lam Sơn đứng trước hai chọn lựa vì sắp phải đối phó với địch bên ngoài vào và địch đánh ở trong thành ra. Lực lượng của Vương Thông hợp với quân Minh sang từ trước đã có khoảng 10 vạn người, quân Lam Sơn vây hãm có chút lơi lỏng đã bị địch ra đánh úp, phải trả giá cao bằng việc mất 3 tướng giỏi Lê Triện, Đinh Lễ bị tử trận, Đỗ Bí và Nguyễn Xí bị bắt. Chỉ có Nguyễn Xí sau đó nhờ mưu trí và nhanh nhẹn đã trốn thoát đông các tướng nóng lòng muốn hạ gấp thành Đông Quan để hết lực lượng làm nội ứng cho Liễu Thăng và Mộc Thạnh. Riêng Nguyễn Trãi không đồng tình với quan điểm đó. Ông kiến nghị với Lê Lợi ý kiến của mình và được chấp thuận. Và Lê Lợi đã theo kế của ông nói với các tướng rằng"Đánh Đông Quan là hạ sách. Nếu ta đánh thành kiên cố đó, phải mất mấy tháng hoặc hàng năm, chưa chắc đã hạ nổi, binh sĩ ta phải mệt mỏi chán nản. Đang khi đó, viện binh của địch kéo dến, thế là ta bị địch đánh cả đằng trước, đằng sau, đó là rất nguy. Chi bằng ta hãy nuôi sức khoẻ, chứa dũng khí chờ đánh viện binh. Khi viện binh đã bị phá, tất nhiên quân trng thành phải hàng, thế là ta chỉ khó nhọc một phen mà thu lợi gấp hai."Diễn biến chiến sự sau đó quả như Nguyễn Trãi tiên đoán. Lê Lợi điều các tướng giỏi lên đánh chặn hai đạo viện binh, giết được Liễu Thăng,Mộc Thạnh bỏ chạy về nước. Vương Thông trong thành tuyệt vọng không còn cứu binh phải mở cửa thành ra hàng, cùng Lê Lợi thực hiện "hội thề Đông Quan", xin rút quân về nước và cam kết không sang xâm phạm nữa.xem chi tiết Khởi nghĩa Lam SơnTheo lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam sau bài thơ Nam quốc sơn thần bị tộiBị vạ với người trong họSau thắng lợi 1 năm, đầu năm 1429, Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn, một tướng giỏi là dòng dõi nhà Trần, mưu phản, sai người đi bắt hỏi tội. Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn. Vì Nguyên Hãn là anh em họ của Nguyễn Trãi nên ông cũng cũng bị bắt giam vì nghi ngờ có liên quan tới tội mưu phản. Sau đó vì không có chứng cứ buộc tội, vua Lê lại thả ông ra. Tuy nhiên cũng từ đó ông không còn được trọng dụng như trước chất, cuộc thanh trừng công thần của Lê Thái Tổ có động cơ từ việc muốn thiên hạ hết mong nhớ nhà Trần; đồng thời cũng là cuộc tranh chấp quyền lực thời bình giữa các tướng có xuất thân họ hàng hoặc cùng quê với vua Lê - do Lê Sát đứng đầu - và các tướng xuất thân vùng khác, tiêu biểu là Trần Nguyên hãn và Phạm Văn Xảo. hơn nữa đó lại còn là cuộc tranh chấp ngôi thái tử giữa con cả của vua là Lê Tư Tề được Nguyên Hãn ủng hộ với con thứ Lê Nguyên Long được Lê Sát ủng hộNăm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Kiếp Bạc, thuộc tỉnh Hải Dương ngày án Lệ Chi ViênXem chi tiết Vụ án Lệ Chi ViênThái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Trái với dự tính của Lê Sát, Thái Tông còn nhỏ tuổi nhưng không dễ trở thành vua bù nhìn để Sát khống chế. Nhà vua anh minh nhanh chóng chấn chỉnh triều đình, cách chức và giết các quyền thần Lê Sát, Lê Ngân; các lương thần được trọng dụng trở lại, trong đó có Nguyễn gian phò vua Thái Tông, Nguyễn Trãi tiếp tục phát huy được tài năng của ông. Tuy nhiên khi triều chính khá yên ổn thì cung đình lại xảy ra tranh Thái Tông ham sắc, có nhiều vợ, chỉ trong 2 năm sinh liền 4 hoàng tử. Các bà vợ tranh chấp ngôi thái tử cho mình nên trong triều xảy ra xung đột. Vua truất hoàng hậu Dương Thị Bí và ngôi thứ tử của con bà là Lê Nghi Dân lên 2 tuổi, lập Nguyễn Thị Anh làm hoàng hậu và cho con của bà này là Lê Bang Cơ chưa đầy 1 tuổi làm thái tử. Cùng lúc đó một bà vợ khác của vua là Ngô Thị Ngọc Dao lại sắp sinh, hoàng hậu Nguyễn Thị Anh sợ đến lượt mẹ con mình bị phế nên tìm cách hại bà Ngọc Dao. Nguyễn Trãi cùng một người vợ thứ là Nguyễn Thị Lộ tìm cách cứu bà Ngọc Dao đem nuôi giấu, sau bà sinh được hoàng tử Tư Thành tức vua Lê Thánh Tông sau này.Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Lệ Chi Viên Gia Lương, Bắc Ninh ngày nay, có vợ ông là bà Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Vua đột ngột qua đời. Ông bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ tru di tam tộc ngày 16 tháng 8 năm 1442. Một cuộc đời oanh liệt với bao công lao đóng góp cho dân tộc cho đất nước của ông đã bị hen ố vì những mưu lợi ích kỷ của triều đình thời tử Bang Cơ mới 1 tuổi, con trai Nguyễn Thị Anh được lập làm vua, tức là Lê Nhân TôngHậu thếTheo một số nghiên cứu gần đây, thủ phạm gây ra cái chết của vua Thái Tông chính là hoàng hậu Nguyễn Thị Anh và bà đã đổ tội cho Nguyễn nhiên, ngay đương thời đã có nhiều người biết việc oan khuất của Nguyễn Trãi. Hơn 10 năm sau, mẹ con vua Nhân Tông bị người con cả Thái Tông là Nghi Dân giết chết để giành lại ngôi vua. Nhưng rồi Nghi Dân nhanh chóng bị lật đổ. Người con thứ của Thái Tông là Khắc Xương từ chối ngôi báu nên người con út là Tư Thành được vợ chồng Nguyễn Trãi cứu thoát trước kia, nay được Nguyễn Xí rước lên ngôi, tức là Lê Thánh 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông, truy tặng ông chức Tán trù bá. Con cháu ông được tìm lại và bổ gia phả họ Nguyễn, có 2 người con của Nguyễn Trãi còn sống và được bổ dụng sau này. Một người con cả là Nguyễn Công Duẫn từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, không có mặt ở nhà khi cả họ bị hình nên thoát nạn. Người con nhỏ là con của một người vợ thứ của Nguyễn Trãi đã có mang cũng trốn thoát khi cả nhà bị hình, sau sinh được Nguyễn Anh Vũ. Gia phả họ Nguyễn còn ghi sau này 2 chi của Công Duẫn và Anh Vũ trở thành hai ngành nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, một ngành là các chúa Nguyễn và một ngành là họ Nguyễn Hữu có công giúp các chúa Nguyễn khai phá Nam Bộ xem chi tiết chúa Nguyễn, Nguyễn Hữu Cảnh. Ngược lên trên, gia phả còn cho biết tổ tiên của Nguyễn Trãi chính là Định Quốc công Nguyễn Bặc thời nhà 1980 nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế tác phẩm văn thơNguyễn Trãi để lại rất nhiều trước tác, cả bằng Hán văn và bằng chữ Nôm, song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Ông là một trong những tác giả thơ Nôm lớn của Việt Nam thời phong kiến, điển hình là tác phẩm Quốc âm thi biết đến nhiều nhất là Bình Ngô đại cáo được viết sau khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc chiến chống quân Minh kéo dài 10 năm 1417–1427. Tác phẩm này đã thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm gốc với những câu nhưViệc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,Nước non bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác;Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập;Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Song hào kiệt thời nào cũng có.trích theo bản dịch của Ngô Tất TốBình Ngô đại cáo được người đương thời rất thán phục, coi là "thiên cổ hùng văn".Ngoài ra ông còn để lại nhiều tác phẩm khác như Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập, Quân trung từ mệnh tập, Dư địa phẩm Gia huấn ca được người đời truyền tụng và cho là của ông, nhưng hiện vẫn chưa có chứng cứ lịch sử xác thêmỨc Trai thi tậpQuân trung từ mệnh tậpDư địa chíBăng Hồ di sự lụcLam Sơn thục lụcQuốc Âm thi tậpSách bình NgôBình Ngô đại cáoKhởi nghĩa Lam SơnLê LợiLê Thái TôngVụ án Lệ Chi Viên
Khách Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời. Tất cả Câu hỏi hay Chưa trả lời Câu hỏi vip Khi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khang đã kể câu chuyện sau Hôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi Hà Nội.Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần, túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này ,một cô học sinh ngồi ở hàng ghế sau đã len lén nhét tờ tiếpKhi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khang đã kể câu chuyện sau Hôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi Hà Nội.Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần, túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này ,một cô học sinh ngồi ở hàng ghế sau đã len lén nhét tờ đồng vào túi quần của ông. Khi nhân viên bán vé đến, theo phản xạ, ông lại đưa tay lục túi quần và thấy tờ đồng. Ông mừng ra mặt, trả tiền vé và cứ tưởng đó là tiền của mình. Còn cô gái thì lặng lẽ mỉm 1 Phương thức biểu đạt chính của bài văn là gid?Câu 2 Hai câu văn "Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần, túi áo, ông già vẫn không thấy tiền mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng" cho thấy ông có tâm trạng gì?Câu 3 Sau khi trả tiền vé, ông già có tâm trạng như thế nào?Câu 4 Theo em vì sao sau khi cho ông già tiền, cô gái lại lẳng lặng mỉm cười?Câu 5 Câu chuyện trên ca ngợi đức tình gì của cô gái?Câu 6 Qua câu chuyện trên giáo sư Đặng Cảnh Khang muốn nói với người đọc điều gì?No coppy trên mạng nhaMình đang cần gấp, cảm ơn ạ I-Đọc hiểu Khi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khanh đã kể câu chuyện sau Hôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi, Hà Nội. Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này một cô học sinh ngồi hàng ghế sau đã len...Đọc tiếpI-Đọc hiểu Khi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khanh đã kể câu chuyện sau Hôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi, Hà Nội. Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này một cô học sinh ngồi hàng ghế sau đã len lén nhét tờ 5 nghìn đồng vào túi quần của ông. Khi nhân viên bán vé đến, theo phản xạ, ông lại đưa tay lục túi quần và thấy tờ 5 nghìn đồng. Ông mừng ra mặt trả tiền vé và cứ ngỡ đó là tiền của mình. Còn cô gái thì lẳng lặng mỉm 1Chỉ ra phương thức biểu đạt chính?Câu 2Câu "Xe chạy" là câu đơn hay câu đặc biệt?Câu 3Tại sao cô gái lại không trực tiếp đưa tiền cho ông già mà phải lặng lẽ nhét vào túi quần?Câu 4Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì? Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dướiKhi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khang đã kể câu chuyện sauHôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi Hà Nội. Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần, túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này, một cô học...Đọc tiếpĐọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dướiKhi nói về sống tử tế, giáo sư Đặng Cảnh Khang đã kể câu chuyện sauHôm đó, trên xe buýt có một người đàn ông cao tuổi. Ông lên xe ở một trạm trên đường Nguyễn Trãi Hà Nội. Xe chạy. Sau khi lục lọi chiếc cặp đeo bên hông, lại móc hết túi quần, túi áo, ông già vẫn không thấy tiền để mua vé. Ông ngồi lặng với khuôn mặt đỏ bừng. Lúc này, một cô học sinh ngồi ở hàng ghế sau đã len lén nhét tờ đồng vào túi quần của ông. Khi nhân viên bán vé đến, theo phản xạ, ông lại đưa tay lục túi quần và thấy tờ đồng. Ông mừng ra mặt, trả tiền vé và cứ tưởng đó là tiền của mình. Còn cô gái thì lẳng lặng mỉm cười.Báo Gia đình và xã hội – Xuân Đinh Dậu 2017Câu 1 Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên Câu 2 Chuyển đổi câu sau thành câu bị động Lúc này, một cô học sinh ngồi ở hàng ghế sau đã len lén nhét tờ đồng vào túi quần của 3 Tại sao cô gái lại không trực tiếp đưa tiền cho ông già mà phải lặng lẽ đút vào túi quần?Câu 4 Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì?Câu 5 Từ nội dung ở phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 120 chữ để trả lời câu hỏi Tại sao cần phải lan tỏa sự tử tế? Tuần Tháng Năm 2 GP 2 GP 2 GP 2 GP 2 GP 1 GP 0 GP 0 GP 0 GP 0 GP
những câu chuyện về nguyễn trãi